Tổ
Sư đời thứ nhất là Đạt Ma Tổ Sư, họ Sát Lợi Đế Phật, dịch nghĩa là “Giác Pháp”
hoặc “Đạo Pháp”. Tên nguyên thủy là Bồ Đề Đa La, là do Hồ Thành Cổ Phật hóa
thân, giáng sanh vào ngày mồng 5 tháng 10 tại Tây vực, miền Nam Ấn Độ, là Tam
Thái Tử nước Hương Chi. Từ nhỏ Phật tánh bất muội, không ham luyến ngôi vua,
nhìn xuyên thấu vinh hoa, theo Đức Bát Nhã Đa La Tôn Giả tu hành. Tôn Giả muốn
thử trí tuệ của Đạt Ma, mới hỏi ông ta rằng: “Trong mọi vật, cái nào là cao nhất?”
Đạt Ma nói: “Nhân ngã là cao nhất”; lại hỏi: “Trong mọi vật, cái nào lớn nhất?”
Đạt Ma nói: “Pháp tánh là lớn nhất”. Tôn Giả rất đỗi vui mừng, nói ông ta đối với
chư pháp đã được thông suốt, nên đặt tên là Đạt Ma. Từ đó xuất gia, là đời Tổ
thứ 28 ở Ấn Độ, hoằng pháp tại Ấn Độ 64 năm, tuân theo lời phó chúc của Sư mình
lúc nhập niết bàn: “Sau khi ta nhập diệt, mi có thể tới Đông phương Trung Thổ,
để khai Phật pháp độ thế”. Vậy là Đông độ Phiếm Hải tới Quảng Châu, thời đó là
Nam Bắc triều, vào ngày 21 tháng 9 phổ thông nguyên niên đời vua Lương Võ Đế
(năm 520 sau công nguyên).
Tại
Trung Quốc, vào thời Chiến Quốc, Mạnh Tử qua đời, nên Đại Đạo bị Trụy, tâm pháp
thất truyền. Tới thời Nam Triều, Lương Võ Đế gặp Chí Công hòa thượng, là người
thấu hiểu nhân quả ba kiếp, chỉ điểm cho Lương Võ Đế biết nhân quả kiếp trước,
nói Lương Võ Đế kiếp trước là một tiều phu, là người rất có lòng hiếu, đã từng
lấy 3 chiếc nón lá để che nắng che mưa cho tượng Phật, ý là muốn xây “Tam Bảo
Điện”, lại có đem 7 tảng đá đặt ở khe suối nhỏ để người qua lại dễ dàng, ý giống
như xay “Thất Tinh Kiều”, mà kết lấy Phật duyên, nên được chuyển thế làm Đế
Vương để nhận quả báo tốt lành. Nhưng do sai lầm là đi bít lại một hang động,
làm chết một con khỉ, rồi con khỉ chuyển kiếp làm Đại tướng tên là “Hầu Cảnh”,
về sau tới đòi quả báo, đem đến việc khổ sở. Cho nên Lương Võ Đế cần mẫn tu thiện
quả, rộng gieo trồng ruộng phước , truyền xuống Thánh Chỉ, cứ cách 5 dặm là cho
xây một am, cách 10 dặm là cho dựng một chùa miếu, tôn trọng Phật Đạo, thiện
chí xông Thiên, trên không tỏ hiện khí cát tường, làm cảm động các vị Thần Tào
lai vãng trong hư không, tâu lên Tam giáo Thánh Nhân, quần Thánh hội nghị, do Đạo
Thống ở Trung Thổ bị phế từ lâu không ai thừa kế, nên phái chọn Bồ Đề tôn giả
là đời Tổ thứ 28 ở Tây Phương, qua Đông độ, để kế thừa Đạo Thống ở Trung Thổ,
truyền thụ chơn không diệu dụng, không dùng văn tự độ người lập công, chỉ nhờ
khẩu truyền tâm ấn để tiếp dẫn Nguyên Lương. Muốn đem Đại Đạo truyền thụ cho Võ
Đế, vì Võ Đế tự cho là mọi thứ bố thí, việc thiện là công đức vô lượng, nhưng Đạt
Ma nói rằng: “Bố thí làm việc thiện không phải là công đức”.
Vua
Võ Ðế hỏi:
-
Trẫm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ tăng ni, không biết bao
nhiêu, vậy có công đức gì chăng?
Ngài
đáp:
-
Ðều không có công đức.
-
Tại sao không có công đức?
-
Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời,
như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
-
Thế nào là công đức chân thật?
-
Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian
mà cầu.
-
Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất?
-
Rỗng rang không thánh.
-
Ðối diện với trẫm là ai?
-
Không biết.
Võ
Đế trong lòng không vui, do oan nghiệt ngấm ngầm cản trở, khó hiểu được ý từ
phương Tây đến, ngược lại dùng ngọc trượng đánh đuổi Tổ Sư, Lão Tổ thấy Võ Đế
vô duyên, căn cơ chẳng hợp nên bỏ đi. Tổ nói rằng:
見性一轉三千卷
了意一刻百部經
迷人不識西來意
無字真經世難尋
了意一刻百部經
迷人不識西來意
無字真經世難尋
“Kiến Tánh nhất chuyển tam thiên quyển
Liễu ý nhất khắc bách bộ kinh
Liễu ý nhất khắc bách bộ kinh
Mê nhân bất thức Tây lai ý
Vô Tự Chơn Kinh thế nan tầm.”
Dịch
nghĩa :
Kiến
tánh một chuyển ba nghìn quyển
Rõ ý một khắc trăm bộ kinh
Kẻ mê chẳng biết Tây lai ý ( ý định của Đạt Ma khi đến từ Tây Trúc Ấn Độ )
Vô tự chơn kinh đời khó tìm
( Vô tự chơn kinh : chơn kinh chẳng có chữ )
Rõ ý một khắc trăm bộ kinh
Kẻ mê chẳng biết Tây lai ý ( ý định của Đạt Ma khi đến từ Tây Trúc Ấn Độ )
Vô tự chơn kinh đời khó tìm
( Vô tự chơn kinh : chơn kinh chẳng có chữ )
Thấy
Võ Đế vô duyên nên chuyển tới Kim Lăng (tức Giang Nam). Trong Vương Xá Thành,
núi Hoàng Hoa, Thần Quang ở đó giảng kinh thuyết pháp 49 năm, nhân Thiên trăm vạn
cùng nghe, giảng đến là thiên hoa tới tấp, đất vọt lên những đóa sen vàng, giáo
hóa chúng sanh, công đức bao la, nên tới độ cho. Đạt Ma Tổ Sư nghe nói bèn đi đến
đó để xem pháp hội và nghe kinh. Thần Quang Pháp Sư cũng rất đắc ý ngạo mạn,
nghĩ rằng : “ ừm, mọi người xem ta giảng kinh giảng hay biết bao, người Ấn Độ
cũng đến nghe ! há ! xa như vậy đến đây để nghe ta giảng kinh, đấy thật là điều
chẳng thể nghĩ bàn ! ”, thế là cảm thấy mình rất giỏi.
Thần
Quang Pháp Sư giảng kinh xong rồi, nào ngờ người Ấn Độ này ( Lão Tổ ) đã đến trước giảng đài của Thần Quang, chấp
tay hỏi rằng : “ Pháp Sư ! Ông ở đây làm gì vậy ? ”
Thần
Quang nói: “Tôi giảng kinh đấy, thuyết pháp đấy, ông vẫn chưa hiểu sao ? ta cứ
nghĩ rằng ông đến nghe tôi giảng kinh cơ, thì ra ông đến cả việc giảng kinh
cũng chẳng hiểu ! ”
Đạt
Ma Tổ Sư nói : “ ông giảng kinh để làm gì ? vì sao phải giảng kinh ? ”
Thần
Quang Pháp Sư rằng : “ ồ ! vậy ông đến để làm gì ? ông đến cả việc vì sao giảng
kinh cũng chẳng biết ư ? ông rốt cuộc là đến từ nơi nào ? ”
“ Tôi đến từ Ấn Độ. ”
“ Ông đến từ Ấn Độ, tôi giảng kinh phật;
Ấn Độ của ông chẳng có giảng kinh phật hay sao ? ông cũng chẳng biết ? ”
Đạt
Ma Tổ Sư nói rằng : “ Ấn độ của chúng tôi giảng kinh là giảng vô tự chơn kinh,
kinh chẳng có chữ. Ông giảng kinh là giảng kinh có chữ ”
Thần
Quang Pháp Sư nói rằng : “ cái gì gọi là vô tự chơn kinh ? ”
Đạt
Ma tổ Sư nói rằng : “ kinh mà tôi nói là không có chữ, một tờ giấy trắng như vậy
giảng kinh. Kinh này mà ông giảng thì chữ là đen, giấy là trắng, vậy ông giảng
nó để làm gì ? ”
Thần
Quang Pháp Sư rằng : “ Tôi giảng kinh để dạy người liễu dứt sanh tử ! ”
Đạt
Ma Tổ Sư nói rằng : “ Ông dạy người ta liễu sanh tử, cách liễu sanh tử như thế
nào ? kinh mà ông đã giảng thì chữ là đen, giấy là trắng, dựa vào cái gì để dạy
người ta liễu dứt sanh tử ? sự sanh tử của bản thân ông đã liễu chưa ? ông nói
là có thể liễu sanh tử, vậy tôi vẽ một cái bánh bằng giấy cho ông ăn đỡ đói ”
Thần
Quang nói: “Bánh bằng giấy làm sao cho đỡ đói?”
Tổ
nói: “Đã biết bánh bằng giấy không thể đỡ đói, thì ông nói kinh pháp trên giấy
làm sao có thể liễu được sanh tử, vốn là vô ích, nghe tôi đem đi đốt cho rồi.”
Thần
Quang nói: “Tôi giảng kinh thuyết pháp độ người vô lượng, làm sao nói là vô
ích, ông không khác gì là khinh khi Phật pháp, tội lớn vô cùng”.
Tổ
nói: “Tôi không phải khinh khi Phật pháp, chính là ông tự mình khinh khi Phật
pháp, hoàn toàn không nghiên cứu tâm ấn chơn pháp của Phật, chấp kinh sách mà
thuyết pháp, thật là bất minh Phật Pháp”.
Thần
Quang nói: “Cái tôi nói là Đạo vạn pháp quy Nhất, sao nói là bất minh Phật
pháp”.
Tổ
nói: “Vạn pháp quy Nhất, Nhất quy về đâu?”
Thần
Quang Pháp Sư bị hỏi đến mức nghe xong cũng chẳng còn lời để nói, trong tâm
nghĩ rằng : “ Cái người Ấn Độ này nói chuyện rất đặc biệt, chắc hẳn là ma vương
đã hiện ? nếu không thì sao lại hủy báng Tam Bảo như vậy ? ”
Thần
Quang nhất thời khó trả lời, trong lòng nổi giận, tay cầm chuỗi hạt châu bằng sắt,
tới đánh vào mặt. Đạt Ma Tổ Sư lúc bấy giờ chẳng để ý, cũng chẳng nghĩ đến việc
Thần Quang Pháp Sư sẽ đánh ngài, tuy rằng là bậc Thánh Nhân chứng quả có tha
tâm thông, nhưng chẳng có đoán trước xem xem ông ta sẽ đối xử với ngài như thế
nào. Đạt Ma Tổ Sư đại khái biết võ thuật, thế nhưng do chẳng có sự đề phòng, chẳng
ngờ đến ông ta lại lợi hại như thế, nói không lại thì dùng hành vi thô bạo để đối
xử với người rồi, do đó một chuỗi hạt châu này đã đánh rớt hai chiếc răng cửa của
Đạt Ma Tổ Sư. Đánh rớt 2 chiếc răng cửa rồi, Đạt Ma tổ Sư xử lí răng này như thế
nào đây ? Bởi vì ngài là bậc Thánh nhân, theo truyền thuyết thì răng của bậc
Thánh Nhân chứng quả bị người ta đánh rớt, nếu nhổ răng này ra ngoài, rơi xuống
đất thì nơi đó sẽ bị hạn hán 3 năm chẳng có mưa. Đạt Ma Tổ Sư nghĩ : “ nếu 3
năm chẳng có mưa thì sẽ phải đói chết biết bao nhiêu người ! Ta đến độ chúng
sanh, cứu chúng sanh, nếu nhổ răng này thì chẳng phải là giết chúng sanh đó sao
? ” Thế nhưng nếu như chẳng nhổ xuống đất, vậy thì răng này xử lí thế nào ? do
vậy, ngài chẳng nỡ nhổ xuống đất, bèn đem hai chiếc răng này nuốt vào bụng, sau
đó theo hướng Tây mà đi.
Có
bài thơ rằng:
達摩西來一字無
全憑心意用功夫
若從紙上尋佛法
筆尖蘸乾洞庭湖
全憑心意用功夫
若從紙上尋佛法
筆尖蘸乾洞庭湖
Dịch
nghĩa :
Đạt
Ma từ phương Tây đến không mang theo một chữ,
Toàn ở nơi tâm dụng công phu,
Nếu từ trên giấy tìm Phật pháp,
Tựa như bút lông chấm cạn hồ Động Đình
Toàn ở nơi tâm dụng công phu,
Nếu từ trên giấy tìm Phật pháp,
Tựa như bút lông chấm cạn hồ Động Đình
Lão
Tổ ý định lui về, nhẫn nại không muốn nói thêm, lại sợ Đạo Thống không ai kế thừa,
đời sau không ai biết nhận Tổ, không thể quy căn phục mệnh, làm sao đắc Đạo,
siêu sanh liễu tử đây! Nên đếm hạt châu lấy mười viên, hóa thành Thập Điện Diêm
Vương, bay nhẹ tới đứng né bên pháp đài của Thần Quang. Thần Quang hỏi: “Các vị
là Thần Thánh phương nào?”
Mười
vị trả lời rằng: “Chúng ta là Thập Điện Diêm Vương, do mi dương thọ đã mãn, đặc
biệt tới câu lấy sanh hồn của mi.”
Thần
Quang giựt mình rằng: “Tôi đã thuyết pháp độ người 49 năm, tích công đức vô lượng,
sao vẫn khó tránh khỏi Diêm Vương?”
Diêm
Quân rằng: “Mi chưa đắc chơn kinh chơn pháp, làm sao có thể tránh khỏi?”
Thần
Quang nói: “Chơn kinh chơn pháp người nào có đặng?”
Diêm
Quân nói: “Hôm trước vị tăng kia, chính là Chơn Phật Tây Thiên, rõ được vô tự
chơn kinh, nhất quán chơn truyền, tu hành Phật sống đại thừa”.
Thần
Quang nghe được, hối hận mất duyên, quỳ xuống sám hối, cầu xin Diêm Quân rằng:
“Cầu xin chư vị Đại Thần từ bi, tạm tha tôi không chết, để được đi tầm Đạt Ma,
chỉ cho chơn pháp siêu thoát, suốt đời không quên đại ơn.” Nói xong đảnh lễ, mười
vị Diêm Quân tự nhiên biến mất, Thần Quang tức thì khấu tạ ân điểm hóa của Thần
Thánh, cấp tốc truy tầm Lão Tổ, đến cả dép cũng quên mặc, nóng lòng muốn tránh
Diêm La Vương, thế là bèn đi chân không, đuổi theo Đạt Ma Tổ Sư.
Thần
Quang Pháp Sư đuổi theo Đạt Ma Tổ Sư; Đạt Ma Tổ Sư bỏ mặc ông ta, cứ hướng về
phía trước đi mãi; Thần Quang Pháp Sư thì cứ mãi đuổi theo sau, đuổi theo cho đến
Hùng Nhĩ Sơn của Lạc Dương – Trung Nhạc Tung Sơn còn gọi là Hùng Nhĩ Sơn. Ngũ
Nhạc chính là Đông Nhạc Thái Sơn, Nam Nhạc Hoành Sơn, Tây Nhạc Hoa Sơn, Bắc Nhạc
Hằng Sơn, Trung Nhạc Tung Sơn. Đến đó thì đã đuổi kịp Đạt Ma Tổ Sư rồi; Đạt Ma
Tổ Sư ngồi xếp bằng nơi đó, ngồi quay mặt vào vách thì chẳng nói gì với người.
Thần Quang nhìn thấy Lão Tổ đang ngồi xếp bằng ở đó thì bèn quỳ ở đó chẳng đứng
dậy, cầu xin sám hối tội lỗi, nói rằng : “ con lúc đầu nhìn thấy ngài chẳng biết
ngài là vị Tổ Sư, là bậc Thánh Nhân, lại còn dùng xâu chuỗi đánh ngài, đấy thật
có lỗi với ngài. Con bây giờ rất hối hận. Con biết là ngài thật có đạo đức, là
bậc sĩ mang đạo, giờ đây con đặc biệt đến để cầu đạo cầu pháp nơi ngài ” . Đạt
ma tổ sư nhìn ngó ông ta, cũng chẳng nói điều gì, vẫn là ngồi xếp bằng nơi đó.
Thần Quang Pháp Sư quỳ ở đó cầu pháp, quỳ một cái thì đã quỳ suốt 9 năm. Bởi vì
Đạt Ma Tổ Sư đã ngồi quay mặt vào vách 9 năm rồi, thế là ông ta cũng đã quỳ suốt
9 năm.
Chúng
ta bây giờ tu hành, ngồi một chút thì cảm thấy eo lưng cũng đau, chân cũng nhức
mỏi, rất không thoải mái. Các vị hãy nghĩ thử xem, Đạt Ma tổ Sư ngồi ở đó quay
mặt vào vách, ngồi đã 9 năm rồi, còn Thần Quang Pháp Sư ở đó đã quỳ 9 năm, đấy
có rất thoải mái không ?
Các
vị lại nghĩ xem, người xưa vì pháp, đã quỳ 9 năm vẫn muốn cầu pháp; chúng ta hiện
nay thậm chí đến 9 ngày, 9 tiếng đồng hồ cũng chẳng có quỳ thì đã cảm thấy rất
vất vả, rất không thoải mái rồi, lại nghĩ nào là : “ tôi buổi sáng chẳng có thứ
để ăn, buổi tối chẳng có mật ong để uống ! ” , cứ khởi lên những vọng tưởng như
vậy; đấy so với người xưa mà nói thì bản thân mình nên cảm tưởng thế nào ?
Các
vị có nóng lòng thay cho Thần Quang Pháp Sư chăng ? ông ta đã quỳ 9 năm ở đó !
đại khái sẽ có người nói rằng : “ ai da ! Thần Quang Pháp Sư quỳ ở đó sẽ quỳ đến
chân rất đau, còn đau hơn là tôi ngồi xếp bằng nữa ! Thời gian 9 năm dài đến
như vậy ”. Lại có người sẽ nói rằng : “ ông ta nhất định đã bỏ đi mất rồi ”. Thật
ra ông ta không bỏ đi đâu cả ! Ông ta nếu đã quỳ 9 năm, bỏ đi một cái thì là uổng
phí toàn bộ công lao nỗ lực bỏ ra trước đây, đến một chút giá trị cũng chẳng
còn nữa; do đó mà ông ta thà rằng quỳ chết ở đó cũng chẳng đi “ Tổ Sư ngài
không truyền cho con cái cách tránh Diêm La Vương thì bất luận thế nào con cũng
sẽ không đứng dậy ! ”
Thần
Quang Pháp Sư đã quỳ ở đó 9 năm; 9 năm này thì công phu của ông ta cũng sắp
hoàn tất rồi, thế nhưng vẫn chưa có thành tựu. Có một năm nọ, trời đổ tuyết lớn;
trên núi Hùng Nhĩ, tuyết bên ngoài đã xuống rất dày. Đạt Ma Tổ Sư ngồi đó xếp bằng,
còn ông ta vẫn cứ quỳ ở đó, tuyết đã ngập đến thắt lưng, chôn cả cái thắt lưng
ông ta rồi. Tuyết này ít nhất có hai thước rưỡi đến ba thước rồi, thế nhưng ông
ta vẫn quỳ nơi đó để cầu pháp.
Đạt Ma Tổ Sư ngồi ở đó mặt đối diện với vách,
đại khái đến giờ cơm thì đứng dậy phải đi ăn cơm, nhìn thấy Thần Quang Pháp Sư
vẫn quỳ ở đó, thì nói rằng : “ ông việc gì mà phải ở đây làm như thế, trời đổ
tuyết lớn như vậy mà ông vẫn quỳ ở đây để làm gì ? ”
Thần
Quang Pháp Sư nói rằng : “ con muốn cầu pháp, con muốn cầu pháp ! xin Tổ Sư từ
bi truyền cho con cái pháp tránh Diêm La Vương này ! trước đây con giảng kinh
chẳng thể liễu dứt sanh tử, bây giờ con phải liễu dứt sanh tử, xin Tổ sư hãy
truyền cho con cái pháp môn liễu dứt sanh tử ! ”. Đạt Ma Tổ Sư bèn nghĩ : “ ông
bây giờ quỳ trước mặt tôi muốn cầu pháp tránh Diêm La; ông chẳng nhớ rằng khi
tôi hỏi ông, ông dùng xâu chuỗi niệm phật đánh gãy rớt hai chiếc răng của tôi,
ông chẳng nhớ lúc đó sao ? ”, sau đó Lão Tổ bèn nói : “ ông xem bây giờ trời có
phải đang đổ tuyết ? ”. Thần Quang Pháp Sư nói : “ trời đang đổ tuyết ! tuyết
này bây giờ đã ngập thắt lưng của con rồi. ”
Đạt
Ma Tổ Sư bèn hỏi : “ tuyết là màu gì vậy ? ”
Thần
Quang Pháp Sư nói rằng : “ tuyết đương nhiên là màu trắng; người ta đều biết
tuyết là màu trắng, chẳng phải là một mình con nói như vậy ! ”
Đạt
Ma Tổ Sư bèn ra một đề tài để khảo ông ta, nói rằng : “ được rồi ! ông xem tuyết
là màu trắng, từ trên trời đổ xuống; ông hãy đợi khi nào trời đổ tuyết màu đỏ,
lúc ấy tôi sẽ truyền pháp cho ông, dạy ông làm thế nào để liễu sanh tử, tránh
vua Diêm La. Nếu như trời chẳng đổ tuyết màu đỏ thì ông chớ có hy vọng nữa. Ông
là một hòa thượng ác như thế này, một xâu chuỗi niệm phật thì đánh gãy hai chiếc
răng của tôi, tôi không báo thù ông thì đã từ bi lắm rồi, sao lại truyền pháp
cho ông chứ ! ”
Các
vị nghĩ xem, đấy lẽ nào chẳng phải là tìm tóc trên đầu hòa thượng sao ? đâu có
! chẳng có cái đạo lí như thế này. Hòa thượng đều là đầu trọc, ở đâu mà có tóc
? thế nhưng ông ta muốn tìm tóc trên đầu hòa thượng. Đạt Ma Tổ Sư nói rằng : “
ông khi nào nhìn thấy tuyết màu đỏ thì tôi mới truyền pháp cho ông ”, thế là đã
ra đề tài thế này để khảo Thần Quang Pháp Sư một cái. Ông ta nhìn và nghĩ rằng
: “ lần này tiêu rồi, tuyết đều là màu trắng, làm sao mà có màu đỏ ? ” ngẩng đầu
lên một cái, à ! nhìn thấy trên vách đá treo một cây đao; cây đao này là giới
đao của người tu đạo, chính là dự bị cho lúc bất đắc dĩ nhất định phải phạm giới
thì thà cắt bỏ cái đầu của chính mình xuống cũng không phạm giới, bảo trì giới
thể, dự bị dùng như thế.
Thần
Quang Pháp Sư nhìn một cái, a ! tâm tư đột nhiên trở nên linh mẫn, phản ứng
nhanh chóng : “ được rồi ! nếu như ngài đã muốn tuyết đỏ, tôi sẽ cho ông xem
tuyết đỏ ! ”, bèn lấy cây giới đao xuống. Các vị nói xem ông ta sẽ làm gì ? có
phải là muốn giết Đạt Ma Tổ Sư ? không phải vậy. Ông ta cầm lấy giới đao, bèn một
đao chặt đứt cánh tay trái, đấy là đáp án của ông ta đối với đề thi này.
Tay
chặt đứt rồi thì sẽ thế nào ? máu ấy bèn vọt ra như suối, làm nhuộm đỏ cả tuyết.
A ! đã chảy nhỏ giọt rất nhiều máu. Ông ta trộn máu với tuyết; tuyết tuy rằng
là màu trắng, thông qua việc nhuộm máu thì biến thành màu đỏ rồi. Do đó Thần
Quang Pháp Sư bèn lấy cái hốt rác dồn lại, trộn lẫn tuyết đỏ tuyết trắng như vậy
thì đều biến thành tuyết đỏ, nói rằng : “ xin Tổ Sư ngài hãy nhìn xem, bây giờ
là tuyết đỏ rồi đấy. ”
Đạt
Ma Tổ Sư nhìn một cái, “ thật đấy chứ ? à ! đấy thật sự là tuyết đỏ ! ”. Đấy vốn
dĩ là từ sớm đã nằm trong sự đoán trước, chính là muốn khảo nghiệm chơn tâm của
ông ta.
Nhìn
thấy thế thì Đạt Ma Tổ Sư đã rất cảm động rồi : “ Ồ ! lần này ta đến trung quốc
vẫn thật là chẳng uổng công, còn gặp được một người tu đạo thật tâm cầu pháp
như ông, có thể vì pháp mà chặt đứt cánh tay, đến cả cánh tay của chính mình
cũng chẳng cần, đấy là thật sự có chút thành tâm. Được rồi ! vậy thì truyền
pháp cho ông ”. Do đó Lão Tổ bèn vì ông ta mà nói pháp môn dĩ tâm ấn tâm – đem
chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm truyền cho ông ta, chỉ cho ông ta pháp
môn trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành phật này, dạy cho ông ta tu hành như thế
nào, dụng công như thế nào, lại nói rằng : “ tại trung quốc thì ông là Tổ Sư đời
thứ hai ”.
Thần
Quang Pháp Sư sau khi nghe pháp rồi, lúc này cảm thấy cánh tay đau rồi; trước
đó ông ta chẳng nghĩ đến cánh tay, chỉ là nghĩ cách làm cho tuyết biến thành
màu đỏ, ngay cả việc cánh tay đau cũng quên mất đi. Sau khi Đạt Ma Tổ Sư giảng
pháp cho ông ta xong, lúc này ông ta đã sanh tâm phân biệt : “ A ! cánh tay mà
con đã chặt xuống rất đau ! ” , do vậy bèn nói với Đạt Ma Tổ Sư rằng : “ ui da
! tâm con bây giờ rất đau, chịu không nổi rồi ! xin Tổ sư hãy an tâm cho con. ”
Đạt
Ma tổ Sư bèn nói : “ tâm của con đau ư ? hãy đưa tâm ra đây , ta sẽ vì con mà
an cho, vậy mới không đau. ”
Thần
Quang Pháp Sư bèn tìm cái tâm của chính mình, tâm ở chỗ nào vậy ? Bốn phía
đông, tây, nam, bắc, trên, dưới, tất cả mọi nơi đều đã tìm khắp rồi, tìm tâm chẳng
thể được ! do vậy bèn nói với Đạt ma tổ sư rằng : “ con tìm chẳng được tâm, tìm
mà không thấy. ”
Đạt
Ma Tổ Sư nói rằng : “ ta đã an tâm cho con xong rồi ! ” Con tìm chẳng được tâm,
ta đã an tâm cho con rồi đấy, thấy chăng ?
Nhị
Tổ mới nghe lời này thì hoắt nhiên khai ngộ rồi ! chính là một câu nói như thế
này, hoắc nhiên bèn đã đại khai ngộ. Đại khai ngộ rồi thì tâm cũng chẳng đau,
gan cũng chẳng đau rồi. từ đấy về sau bèn dựa theo pháp môn mà Đạt Ma Tổ Sư đã
truyền cho ông ta để tu hành. Đấy gọi là pháp môn “ trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành phật, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền ”.
Nhị
tổ đắc được pháp môn này thì truyền cho Tam Tổ, Tam Tổ truyền cho Tứ Tổ, Tứ Tổ
truyền cho Ngũ Tổ, Ngũ Tổ truyền cho Lục Tổ Huệ Năng, do vậy mà pháp này bèn
truyền một đời sang một đời ở Trung Quốc.
Có
bài kệ rằng:
真經不與紙經同
紙上尋經枉用工
有人參透其中意
安在巍巍不動中
紙上尋經枉用工
有人參透其中意
安在巍巍不動中
Chơn
Kinh bất dĩ chỉ kinh đồng,
Chỉ thượng tầm kinh uổng dụng công,
Hữu nhân tham thấu kỳ trung ý,
An tại nguy nguy bất động trung.
Chỉ thượng tầm kinh uổng dụng công,
Hữu nhân tham thấu kỳ trung ý,
An tại nguy nguy bất động trung.
Dịch
nghĩa :
Chơn
kinh chẳng giống kinh trên giấy
Trên giấy tìm kinh uổng dụng công
Có người tham thấu ý trong đó ( tham thấu : nghĩa là hiểu triệt để )
An tại nguy ngu bất động trung ( nguy nguy : cao ngất )
Trên giấy tìm kinh uổng dụng công
Có người tham thấu ý trong đó ( tham thấu : nghĩa là hiểu triệt để )
An tại nguy ngu bất động trung ( nguy nguy : cao ngất )
Lão
Tổ có bài kệ :
徑有十萬八千里
明明白白極樂宮
指破西方目前在
可笑迷人路不通
Kính hữu thập vạn bát thiên lý
明明白白極樂宮
指破西方目前在
可笑迷人路不通
Kính hữu thập vạn bát thiên lý
Minh Minh bạch bạch cực lạc cung
Chỉ phá Tây Thiên mục tiền tại
Khả tiếu mê nhân lộ bất thông.
Dịch
nghĩa :
Đường
có mười vạn tám nghìn dặm
Rõ rõ ràng ràng cực lạc cung
Chỉ phá Tây Thiên ngay trước mắt
Đáng cười kẻ mê đường chẳng thông.
Rõ rõ ràng ràng cực lạc cung
Chỉ phá Tây Thiên ngay trước mắt
Đáng cười kẻ mê đường chẳng thông.
Hình icon Show icon