Ấn Chứng Của Đạo Thật, Lý Thật,Thiên Mệnh Thật



Thỉnh đàn giáng đạo và đốt tờ biểu văn cầu đạo - một chỉ điểm - biểu văn pháp hội
 Điểm Truyền Sư hễ thỉnh đàn, những người có mắt âm dương bèn sẽ nhìn thấy các vị thần hộ pháp, chư thiên thần thánh đến đàn hộ pháp.

Vào lúc Điểm Truyền Sư thỉnh đàn, từ trên trời sẽ giáng xuống đường kim tuyến tiếp liền đến ngọn đèn Mẫu, đèn Lưỡng Nghi.

   Quan Pháp Luật Chủ, Lữ Pháp Luật Chủ phân biệt chồng lên ở trên mình của các Tiền Hiền làm thượng hạ chấp lễ. 

Lúc Điểm Truyền Sư đọc xong tờ Long Thiên Biểu, đồng thời sau khi vị giảng sư làm thao trì kiểm tra đối chiếu lại họ tên của người cầu đạo và công đức phí chẳng có sai sót thì bắt đầu đốt biểu. Tờ biểu văn sau khi bị đốt thì đã trở thành đống tro tàn, thế nhưng người có mắt âm dương hoặc đã mở được thiên nhãn thì lại nhìn thấy tờ biểu văn đã đốt thành tro tàn vẫn hoàn hảo nguyên vẹn như ban đầu từ từ xoay chuyển bồng bềnh nhẹ nhàng bay lên trời, và do Tam Quan Đại Đế tiếp đi.


   Tờ Long Thiên Biểu đốt lên, thiên bảng ghi danh, địa phủ xoá tên

Sau đó, khi nghi thức bàn đạo tiếp tục tiến hành, còn Thượng Chấp Lễ đọc xong : “ bình tâm tịnh  khí, mắt nhìn phật đèn, tịnh đợi điểm huyền ”, tiếp liền đó lúc điểm truyền sư cầm cây nhang điểm đạo lên, dẫn ánh lửa của trên ngọn đèn Mẫu mà đối vị càn đạo đọc rằng : “ trước mắt tức là chơn dương quan, chơn thuỷ chơn hoả đã đầy đủ, ta nay chỉ con một con đường, ánh đèn soi sáng ngay trước mắt ”, hoặc là đối với khôn đạo thì đọc rằng : “ trước mắt quán thì là, dưới đèn thấy huy hoàng, đây là đường chơn tỏ, liễu kết về cố hương ”, lúc này đường kim tuyến mà những người có mắt âm dương nhìn thấy lại từ đèn Mẫu tiếp đó mà phóng phát ra nhiều đường kim tuyến, phóng đến chỗ huyền quan của tất cả những người cầu đạo, còn Điểm Truyền Sư vào lúc người cầu đạo nhìn chằm chằm vào ngọn đèn Mẫu, đột nhiên mà đến, dùng ngón tay chính giữa tiếp cận hướng huyền quan, nương vào ánh lửa của ngọn đèn Mẫu mà điểm phá khiếu sanh tử của chúng sanh, trực chỉ con đường lớn thông thiên quy căn nhận mẫu, phản hồi cố hương vô cực.


Đường kim tuyến từ trời giáng xuống mãi cho đến việc bàn đạo kết thúc thì mới biến mất. Còn chúng ta đều biết rằng, những người đã có cầu đạo qua thì ở chỗ của huyền quan khiếu đều sẽ có ánh kim quang nhỏ cỡ như hạt đậu xanh vậy, những tiền hiền mà tu bàn đạo càng tinh tiến, nội đức tu rất tốt thì ánh kim quang ấy càng to càng sáng, mà người cầu đạo trên trời cũng có một đoá hoa sen, trên đoá sen ấy có tên của người cầu đạo, thế nhưng nếu như sau khi cầu đạo mà lại rời khỏi phật đường quá lâu, thì chỗ của Minh Sư một chỉ điểm bèn sẽ mờ nhạt chẳng có ánh sáng.

Nếu như sau khi cầu đạo lại đi quy y hoặc là nhận lễ rửa tội, thì chỗ của Minh Sư một chỉ điểm, cái điểm lớn nhỏ cỡ hạt đậu xanh ngoài việc sẽ mờ nhạt chẳng có ánh sáng ra, lại còn sẽ bị đánh một dấu chéo ( X )  ở trên điểm ấy. Do đó, chúng ta thật sự phải thật tốt mà trân trọng lấy, tuyệt đối chớ có mà được duyên rồi lại mất duyên, vào núi báu mà ra về tay không.

Tuy nói rằng cầu đạo rồi chỉ cần không phản đạo bại đức, đồng thời thật tốt mà hành công lập đức thì có thể quay trở về cõi Vô Cực Lí Thiên đoàn tụ với đấng Vô Cực Lão Mẫu, với Chư Phật Bồ Tát và thầy Tế Công Hoạt Phật, thế nhưng cầu đạo nếu như chỉ là thiên bảng ghi danh, thì giống như các học sinh nhỏ đi học đã giao nộp tiền học phí nhưng lại chẳng có lên lớp, thì làm sao hiểu được những đạo lí làm người xử thế đây. Do đó, tu đạo cũng như vậy, cầu đạo rồi nhưng đối với đạo vẫn là mơ màng chẳng biết, do đó mà vẫn phải tham dự lớp pháp hội hai ngày ( suất tánh tiến tu ban ) để được phật bàn ghi danh, sau đó lại lên các lớp nghiên cứu để những người mới cầu đạo có sự nhận biết sâu hơn nữa đối với đạo.

Vào lúc mở pháp hội, cảnh tượng mà những người có mắt âm dương, có thiên nhãn nhìn thấy đều sẽ giống với bức vẽ mà người hoạ sĩ indonesia đã vẽ dưới đây.


Bức tranh này là do một vị họa sĩ người Indonesia có mắt âm dương vẽ lại xuống cảnh tượng hư không của lúc mở pháp hội tại Quang Pháp Đàn của Indonesia. Bốn phía xung quanh pháp hội đều là phật quang phổ chiếu, có Tứ Đại Pháp Luật Chủ gồm Quan Thánh Đế Quân ( ngay chính giữa phía trước ), Trương Phi ( ngay chính giữa phí sau ), Lữ Đồng Tân ( bên phải ), Nhạc Phi ( bên trái ) dẫn theo các thiên binh thiên tướng hộ pháp.

Phía trên có chư thiên tiên phật lâm đàn, Long Hạc trình tường. Phía bên trái có Bát Tiên, Tam Thái Tử, Quán Thế Âm Bồ Tát giáng nước cam lồ, Địa Tạng Cổ Phật, Di Lặc Cổ Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, Đạt Ma Tổ Sư, Giêsu Cơ Đốc ngũ giáo thánh nhân. Sư Tôn Sư Mẫu thì từ trên đài sen ở phía trên tay phải đáp xuống, đến phía bên ngoài trước phật đường, quỳ xuống hướng về vô số những oan thân trái chủ của các lớp viên để khấu đầu cầu tình ( các oan thân trái chủ là rất nhiều những quỷ hồn trắng vây xung quanh bên trái bên phải và phía trước phật đường ) , Sư tôn sư mẫu khẩn cầu họ tạm thời chớ đòi các món nghiệp nợ, để cho các lớp viên có thể yên tâm học đạo; phía sau phật đường thì là rất nhiều các đời tổ tiên của các lớp viên đang nghe giảng.

Vị đạo thân người indonesia này vốn chẳng hiểu biết văn hóa trung hoa mà rốt cuộc lại có thể vẽ phong cách ăn mặc, trang sức của các vị tiên phật cổ đại của trung quốc sinh động như thật, quả thật khiến cho người ta chẳng thể nghĩ bàn.

Cảnh tượng vĩ đại của pháp hội đã có quá nhiều người tận mắt nhìn thấy; có một số người là bẩm sinh có mắt âm dương nhìn thấy, có một số người là sau khi trải qua tu luyện có mắt âm dương nhìn thấy, có một số người là lúc linh tánh xuất du nhìn thấy, có một số người là do lúc Tiên Phật dẫn linh tánh họ đi du ngoạn nhìn thấy. Từ những quốc gia khác nhau, địa điểm khác nhau, những người có tín ngưỡng khác nhau, ngôn ngữ khác nhau…cảnh tượng vĩ đại mà họ đã nhìn thấy đều đại thể là giống nhau, điều đó đã chứng minh sự tồn tại của linh tánh và sự tôn quý của việc cầu đạo. Trên đời chẳng có chuyện kỳ lạ gì là không có, chẳng phải chỉ có mắt nhìn thấy mới là thật. Khi mắt chúng ta chẳng thể nhìn thấy thì những sự việc của vũ trụ vẫn cứ tồn tại như vậy, duy chỉ có dùng “ tâm ” thật tốt mà đi thể hội, từ từ mà đi tìm ra chứng cứ thì cũng có thể sinh ra lòng tin chẳng thể sánh được. 


Thế nhưng điều đặc biệt bổ sung ở đây là tờ biểu văn lập nguyện đã đốt vào lúc pháp hội kết thúc bế ban. Vào ngày cuối cùng sau khi mở xong hai ngày pháp hội, những lớp viên đến dự pháp hội nhất định sẽ lập xuống hai điều nguyện “ trọng thánh khinh phàm, tài pháp song thí ”; lập nguyện lúc bấy giờ chư thiên tiên phật, vạn tiên bồ tát giáng đến chỗ không gian phía trên khá gần với phật đường, thầy Tế Công Hoạt Phật và Nguyệt Tuệ Bồ Tát cách phật đường càng gần hơn, và do lớp trưởng càn đạo, phó lớp trưởng khôn đạo đại biểu cho các lớp viên tham dự pháp hội hiến bó nhang lớn, đồng thời cùng với các lớp viên khác của pháp hội cùng khấu đầu tạ ơn, còn điểm truyền sư thì ở bên cạnh chờ người đọc biểu và các lớp viên sau khi đọc xong biểu văn thì đốt tờ biểu văn. Tuy rằng cuối cùng thì tờ biểu văn rốt cuộc bị đốt thành tàn tro, thế nhưng vào thời khắc này thì tờ biểu văn mà những người có mắt âm dương nhìn thấy lại vẫn hoàn hảo y nguyên như ban đầu mà bay nhẹ lên trên, thế nhưng điều mà khác với tờ biểu văn cầu đạo là tờ biểu văn này chuyển rất nhanh, vả lại là do hai vị thiên long hộ pháp hộ lấy bay lên trời.

Bất kể là bàn đạo hay là mở pháp hội, đều là người và trời cùng làm, vẻ ngoài trông có vẻ là người của nhân gian bận bịu đến mức như quay cuồng, trên thật tế thì thiên thượng nhân gian mỗi vị đều tận hết chức trách, tận hết sức lực của mình, đồng tâm đồng đức hộ trì lấy đạo vụ thù thắng này.

Tế Công Hoạt Phật đã từng dẫn dắt anh Tiểu Trịnh đi xem tên dẫn sư, bảo sư của mỗi một người cầu đạo đã ghi chép lại trên trời không chỉ là một hai vị mà thôi, mà là vô số vị. Hoạt Phật Lão Sư từ bi bảo với anh Tiểu Trịnh rằng : phàm là trước lúc chưa cầu đạo, những Tiền Hiền đã từng khai thị qua đạo lí cho chúng ta đều được tính vào trong đó, bao gồm những giảng sư giảng đạo nghĩa, giảng tam bảo vào lúc bàn đạo ngày hôm đó cũng đều được tính vào trong đó, và những người giảng nói đạo lí một cách riêng tư cho người cầu đạo nghe đều được tính vào đó. Xin các vị Tiền Hiền hãy nhớ lại xem, có lúc khi đi độ người, vốn dĩ là tài ăn nói không tốt lắm, vì sao mà khi chúng ta đi độ người, tài ăn nói bèn trở nên rất tốt vậy ? Đấy là do Tiên Phật đang giúp đỡ chúng ta đấy, Tiên Phật cũng đang giúp đỡ trợ đạo, do vậy mà dẫn sư, bảo sư của người cầu đạo thì phật hiệu của tiên phật cũng được liệt vào trong đó, đấy thật là điều chẳng thể nghĩ bàn đấy !

Dẫn sư, bảo sư mà thẻ cầu đạo đã ghi lại và hôm cầu đạo “ dẫn bảo sư đương nguyện mỗi vị tự báo họ tên mình ” đấy chỉ là hai vị dẫn sư, bảo sư của mỗi người cầu đạo làm đại biểu quỳ trên bái đệm đại biểu hiến hương tam trụ và lập nguyện là giống nhau cả. Điều này đã ấn chứng rằng khi vài vị tiền hiền cùng đi thành toàn một người đến phật đường cầu đạo thì vị dẫn sư, bảo sư của vị này sau khi cầu đạo ơn trên đều sớm đã ghi chép lại toàn bộ rồi, do đó mà các vị tiền hiền chẳng cần phải quá so đo tính toán xem tên mà trên thẻ cầu đạo đã ghi là tên của vị Tiền Hiền nào.

Ấn chứng sau khi cầu đạo, chỉ cần không khi sư diệt tổ, không phản đạo bại đức làm những việc trái với lương tâm, trái với mười điều nguyện lớn đã lập lúc cầu đạonhững đạo thân lúc quy không đều được Phật đến tiếp dẫn cho nên sắc mặt hồng hào tươi đẹp, thân mềm như bông, mùa đông không cứng, mùa hè không thối.



Ấn Chứng Của Đạo Thật, Lý Thật,Thiên Mệnh Thật Ấn Chứng Của Đạo Thật, Lý Thật,Thiên Mệnh Thật
910 1

Bài viết Ấn Chứng Của Đạo Thật, Lý Thật,Thiên Mệnh Thật

Chia sẻ bài viết

Cùng Chuyên Mục

Previous
Next Post »