Đạo
Thật Lí Thật Thiên Mệnh Thật ( phần 2)
Vào
lúc thời kì mạt pháp này, lòng người đồi bại, đạo đức luân vong, bừa bậy phạm
pháp tiếp liền không ngớt, dẫn kéo đến các loạn tượng của xã hội, khiến cho
lòng người dao động bất an, thiên tai nhân hoạ tai kiếp nhiều liên miên, cuộc sống
của người đời càng hướng đến sự phiền muộn bất an và đầy rẫy những đau khổ, chẳng
cách nào tự cứu rỗi, chẳng cách nào giải thoát. Cũng may gặp lúc Lão Mẫu ( mẹ
linh tánh ) đại khai ân điển, phái Minh Sư ứng vận giáng thế, cứu rỗi người đời,
tịnh hoá lòng người, khiến cho gia đình hoà thuận an lạc, xã hội an định, quốc
gia cát tường hoà bình, thế giới hoà bình.
Lúc
bấy giờ Lão Mẫu từ bi đại khai phổ độ, đã từng định ra “ độ người sống chẳng độ
người chết ”. Lại sau đó do Tam Quan Đại Đế và Địa Tạng Cổ Phật, … khấu cầu Lão
Mẫu từ bi ân chuẩn, mới có thể âm dương đều cùng độ. Hiếu Kinh có ghi rằng : “
thân thể, tóc và da đều là nhận được từ Bố Mẹ, cho nên không dám làm tổn
thương, là sự khởi đầu của hiếu đạo, lập thân hành đạo, rạng danh ở đời sau,
làm vẻ vang cha mẹ, là tận cùng của hiếu " ! Mạnh Tử rằng : “ Nuôi sống
không thôi thì chưa đủ để xem là việc lớn, duy chỉ có tiễn đưa cha mẹ khi cha mẹ
chết được đưa đến nơi an lạc mới có thể xem là việc lớn. ” Có thể thấy rằng, tu
thân hành đạo, hành công lập đức để siêu bạt cha mẹ, tổ tiên và người thân
thoát lìa khỏi sáu nẻo luân hồi mới được xem là thật sự đã tận đến đại đại hiếu.
Đợi khi vong linh tổ tiên thông qua siêu bạt, thì có thể “ thiên bảng ghi danh,
địa phủ xoá tên ” cho họ, trở về đến Thiên Phật Viện Tự Tu Đường của cõi Vô Cực
Lí Thiên, lại trải qua trăm ngày tu luyện để khôi phục lại bổn thể thuần dương,
lại do Minh Minh Thượng Đế phái Tam Quan Đại Đế án công định quả. Quả vị ấy là
dựa vào công đức tu dưỡng lúc còn sống của vong linh được siêu bạt, và công đức
của con cháu tại thế làm tiêu chuẩn. Vong linh sau khi trải qua trăm ngày tu
luyện thì có thể do Tiên Phật đưa đến Phật đường kết duyên với người nhà hoặc
các vị đạo thân, nói rõ tình hình sau khi phi thăng trở về Vô Cực Lí Thiên, hoặc
bàn giao dặn dò những việc mà lúc còn sống vẫn còn chưa xử lí chưa lo liệu
xong.
Đàn
chủ của phật đường Minh Đức là Ông Trịnh Xuân Thăng, phật duyên thâm hậu, căn
tánh bất muội, sau khi cầu đạo tích cực gia nhập vận hành đạo trường và tham
gia pháp hội ( Suất Tánh Tiến Tu Ban ) và lớp Tân Dân của các lớp tiến tu 5
năm, thành tâm tiếp nhận sự giáo dục chính quy của đạo trường do Tiền Nhân đại
đức an bài. Ông Trịnh lên lớp đến lúc bế ban lớp Chí Thiện, lại phát tâm lập xuống
đại nguyện thanh khẩu trường chay và gia nhập phật đường Minh Đức đảm nhiệm
thiên chức Đàn Chủ. Vì lúc tham dự pháp hội, lắng nghe Tiền Nhân đại đức từ bi
khai thị về đạo hiếu, cảm nhớ ân đức cha mẹ như trời cao đất dày chẳng gì có thể
đền đáp, nóng lòng muốn siêu bạt cha mẹ để có thể tận đại đại hiếu của phận làm
con. Ngày 6 tháng giêng năm dân quốc thứ 97 ( 2008 ) cũng là lúc cơ duyên chín
muồi, Tiền Nhân đại đức từ bi ân chuẩn đã làm thánh sự siêu bạt tại tổng đàn của
đạo trường đài bắc là Phật Viện Sùng Đức.
Vào hôm siêu bạt, Đàn Chủ Trịnh Xuân Thăng nhân cơ hội muốn thành toàn đứa con của ông là Trịnh Huyền Trinh, để khiến con trai hiểu tình hình và sự thù thắng của việc siêu bạt, nên đã cố gắng mời con trai đến hội trường để chụp ảnh làm lưu niệm. Ơn trên từ bi nhân cơ duyên này đã đặc biệt đem tình hình siêu bạt, thiên cơ không dễ gì tiết lộ này hiển hiện cho đứa con trai của ông Trịnh nhìn thấy, và cần đem tình hình thù thắng siêu bạt của người trời cùng bàn mà hôm đó đã nhìn thấy thuật lại tường tận chi tiết để làm kiến chứng; mượn nhờ vào sự hiển hoá này có thể thành toàn càng nhiều các đạo thân do đó mà phát tâm noi theo, có thể siêu bạt phụ mẫu và người thân, tận đại đại hiếu. Nay khuyên các vị đạo thân hữu duyên có thể dẫn độ cha mẹ còn sống của kiếp này và bạn bè thân thích có thể cầu đắc đại đạo này càng sớm càng tốt. Nay đã đến thời kì tam kì mạt kiếp Minh Sư giáng thế, chúng ta có thể có được cơ duyên tốt đẹp này may mắn tình cờ gặp Minh Sư, và biết rằng “ trời không ngôn, đất không ngữ, duy chỉ có con người có thể làm thay ”, sao có thể “ chẳng tu chẳng bàn ”, “ chẳng thay thầy chia sẽ gánh vác nỗi ưu lo ”, “ chẳng thay trời tuyên hoá ” đây ? . Có câu tục ngữ rằng “ ngàn năm Thiết Thụ nở hoa dễ, lỡ qua phổ độ gặp lại khó ”. Mong mọi người có thể trân trọng mối nhân duyên tốt lành mà cùng tận tâm tận sức, Thánh Phàm kiêm tu, thì mới không phụ lòng Thiên Ân Sư Đức và cái ân hậu ái của Lão Tiền Nhân, Tiền Nhân Đại Đức.
Dưới
đây là những gì Tiểu Trịnh Huynh tường thật lại những gì mà anh đã nhìn thấy.
Pháp
hội ( Suất Tánh Tiến Tu Ban )
1. Cầu đạo là “ Thiên Bàn ghi danh, địa phủ xoá
tên ”. Tham gia pháp hội bế ban lập nguyện, mới có thể “ đăng kí Phật Bàn ”.
2. Vào lúc mở pháp hội, cảnh tượng hiển hiện mà
Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy giống với bức ảnh “ Cảnh tượng Pháp Hội ” mà hoạ sĩ
người Indonesia đã nhìn thấy rồi vẽ lại.
Pháp
hội ( Biểu Văn lập nguyện )
Lúc
bế lớp, lớp viên pháp hội lập hai điều nguyện “ trọng Thánh khinh Phàm ”, “ Tài
Pháp song thí ”.
Khi
lập nguyện, Chư Thiên Tiên Phật, Vạn Tiên Bồ Tát đều giáng đến khoảng không bên
trên khá gần phật đường, còn Tế Công Hoạt Phật và Nguyệt Tuệ Bồ Tát thì cách phật
đường gần hơn. Lớp viên pháp hội hiến hương khấu đầu tạ ân. Sau khi đọc biểu
xong, Điểm Truyền Sư đốt biểu văn lập nguyện thì Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy tờ
biểu văn đã hoá thành tro lại khôi phục trở lại nguyên trạng ban đầu, xoay rất
nhanh bay hướng lên trên, do hai vị Long Thần Hộ Pháp hộ lấy bay lên trời.
Bàn
đạo và Pháp Hội là người trời cùng nhau bàn, Tam Tào phổ độ ( Thiên, Nhân, Địa
) là Tam Tào mỗi Tào phụ trách nắm bắt chức trách của mình, hộ trì thành tựu
nhân duyên thù thắng này. Thầy Tế Công Hoạt Phật đã từng nói qua : “ đồ nhi có
tâm thì Thầy trợ giúp ”. Vậy nên mọi người có cái tâm tu đạo bàn đạo thì ơn
trên từ bi sẽ giúp đỡ chúng ta đấy.
Dẫn
Bảo Sư :
Thầy
Tế Công Hoạt Phật từ bi dẫn lãnh Tiểu Trịnh Huynh đi ngao du Vô Cực Lí Thiên,
nhìn thấy chỗ ghi chép ở Lí Thiên : Dẫn Bảo Sư của mỗi một người cầu đạo không
chỉ có hai vị mà thôi, mà là vô số vị. Thầy Tế Công Hoạt Phật bảo với Tiểu Trịnh
Huynh rằng : “ phàm là trước lúc chưa cầu đạo đã từng có Tiền Hiền khai thị đạo
lý qua cho chúng ta nghe thì đều được tính vào. Vào lúc cái hôm bàn đạo, vị giảng
sư giảng giải đạo nghĩa tam bảo cũng đều được tính vào trong đó; giảng nói
riêng đạo lý cho người cầu đạo nghe hiểu cũng đều là được tính vào trong đó. ”
Ngoài
ra, khi đi độ người, tài ăn nói đột nhiên trở nên rất tốt, đấy là do Tiên Phật
mượn cái miệng của chúng ta, đang giúp đỡ chúng ta độ người. Vậy nên trong Dẫn
Bảo Sư của người cầu đạo cũng bao gồm Phật Hiệu của những vị Tiên Phật đó.
Thẻ
cầu đạo, Dẫn Bảo Sư đăng kí ghi trên đó chỉ là đại biểu trong số rất nhiều Dẫn
Bảo Sư mà thôi. Ơn trên nhất định sẽ đem Dẫn Bảo Sư của người cầu đạo ghi chép
tường tận rõ ràng.
Hạt
giống bồ đề :
Mỗi
một người đều có một hạt giống bồ đề bẩm sinh, tồn tại ở nơi sâu thẳm của con
tim trẻ sơ sinh, nho nhỏ như hoa còn ngậm nụ chờ hé nở, sẽ tuỳ theo sự tu trì của
tâm tánh sau này, và có hành thiện hay không ? Còn về phần hình trạng sắc màu của
nó thì sẽ có những thay đổi khác nhau hoặc khô héo.
Chủng
loại cờ vàng
1.
Cờ cầu đạo :
Những
người đã cầu đạo rồi thì trên vai bên phải sẽ hiển hiện ra một lá cờ cầu đạo
màu vàng, là do ơn trên từ bi ban cho.
2.
Cờ thanh khẩu :
Khi
lập xuống “ nguyện thanh khẩu trường chay ”, từ trên trời sẽ giáng xuống một luồng
bạch quang giáng đến người lập nguyện, trên vai phía bên trái sẽ có gắn một cây
cờ thanh khẩu, một đoá sen màu trắng, đoá sen ấy ở trên trước ngực trái, phân
biệt trong ngoài với hạt giống bồ đề.
Ngày
29 tháng 6, dân quốc năm thứ 97 ( 2008 ), tại Nhà Văn Hoá Giáo Dục Sùng Đức ở
đài bắc, tham gia lớp đàn chủ ( lập nguyện thanh khẩu ).
Khi
thỉnh đàn, lễ đường trình hiện trạng thái trong suốt, Chư Thiên Tiên Phật Bồ
Tát giáng lâm. Hôm nay lập nguyện, do Bạch Thuỷ Thánh Đế từ bi giám ban. Lúc đốt
tờ biểu văn lập nguyện, Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy vô số đường bạch quang từ
trên trời giáng xuống, đến phía bên trên ngực trái của những vị đạo thân lập
nguyện, và hiển hiện một đoá hoa sen trắng. Thế nhưng có những đạo thân bên cạnh
có một số vị chẳng có bạch quang, chẳng có đoá sen trắng. Tiểu Trịnh Huynh thỉnh
vấn Thầy Tế Công, mới biết là họ có tâm bằng lòng hộ trì phật đường, học tập tu
đạo hành đạo như thế nào, là lập ( nguyện phó Đàn Chủ ), nhưng chưa lập ( nguyện
Thanh Khẩu ).
Động
Vật và Thực Vật cùng là có sinh mệnh, cớ sao những người thanh khẩu trường chay
có thể ăn thực vật ?
Thầy
Tế Công từ bi nói rằng : “ cây cỏ chỉ có một hồn, gọi là sinh hồn, đầu của nó
hướng xuống dưới, chỉ biết sinh hoa kết trái, chẳng biết các cảm xúc khổ vui. Nếu
là các loài động vật thì có hai hồn, một là sinh hồn, chỉ sinh trưởng di chuyển
chạy nhảy, hai là giác hồn, cảm giác vui vẻ đau khổ, đầu của chúng ngang thẳng,
gặp khó biết tránh, gặp thức ăn biết cầu xin, biết ấm no đói lạnh. Con người có
3 hồn, một là sinh hồn, hai là giác hồn, ba là linh hồn, đầu con người hướng trời,
con người có 3 hồn này nơi thân, cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu. Đầu của
cây cỏ hướng đất, đầu của cầm thú ngang thẳng, đầu của thân người đội trời. ”
Bậc
giác từng nói “ tiền tài, sắc dục, danh lợi, ăn, ngủ là năm Ma Chướng lớn của sự
tu hành ”. Bình tâm mà nói, chúng ta ăn thực vật chủ yếu là đang hấp thu tinh
hoa của nhật nguyệt, tinh tuý của vũ trụ. Một quả trái, một bó rau cần phải trải
qua sự sinh dưỡng của thiên địa âm dương, chúng ta mới có được để mà ăn. Và rau
củ quả không có giác hồn và linh hồn, thuộc loài vô tình, không có giác quan,
không có hệ thần kinh, không có biểu hiện của ngũ ấm, không có cảm xúc, tư tưởng,
hành nghiệp, không liên quan đến đau ngứa, chỉ duy trì sức sống đơn thuần nhất.
Khi chúng ta vẫn chưa tu trì đến viên mãn rốt ráo, thì tạm thời lấy việc không
ăn quá đỗi, không ăn nhiều, không lãng phí, không xem thường để làm nguyên tắc,
dùng cái tâm cảm ân để ăn, bởi vì chúng ta vẫn còn sống trong cái thế giới nhị
nguyên “ tương đối ”, luôn có sự phân biết đối đãi, và vẫn phải cần đến thức ăn
để nuôi sống duy trì sinh mệnh, tu đạo hành đạo, hành công lập đức, cứu độ
chúng sanh, còn cần mượn cái thân giả này để tu cái tánh linh thật, để đạt đến
cảnh giới trình độ tu chứng cao của Tiên Phật Bồ Tát, đến cái thế giới “ tuyệt
đối ” hoàn toàn bình đẳng, không có sự phân biệt giữa thấp và cao, giữa tốt và
xấu hay giữa chúng sinh hữu tình và vô tình nữa thì mới không còn vướng mắc vào
chuyện ăn uống.
Động
vật thì đều có giác hồn, thuộc loài hữu tình, có tình thức, có hệ thần kinh biết
đau đớn, khoái lạc, yêu ghét sợ hãi, biết cử động; khi bị bắt bị giết, do kinh
hãi khiếp sợ, phẫn nộ, trong cơ thể sẽ sản sinh độc tố. Chúng ta nếu đem ăn vào
bụng, sau nhiều ngày tháng tích luỹ, khi độc tố tích luỹ đến một mức độ nhất định
thì thân thể sẽ sản sinh ra các loại bệnh tật đau ốm, các loại bệnh nhân quả
báo ứng. Vậy nên mọi người hãy phát huy tâm đồng cảm, tâm từ bi, đối đãi tốt với
động vật, bởi vì chúng sanh bình đẳng.
3.
Cờ Giảng Sư
Người
đã lập nguyện giảng sư rồi thì ở trên đầu có gắn một lá cờ ( cờ Giảng Sư ).
4.
Tiên Y ( áo Tiên ) của Giảng Sư
Mỗi
một cây cờ vàng lớn nhỏ và độ cao không giống nhau. Phần lưng của Tiên Y đều có
4 chữ ghi “ thay trời tuyên hoá ”.
Có
một hôm, Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy một vị giảng sư, cây cờ vàng và Tiên Y Giảng
Sư trên thân đã biến mất. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng vị giảng sư này đã
không quay trở về phật đường để hành công liễu nguyện nữa rồi.
5. Ra nước ngoài khai hoang :
Người
có ra nước ngoài khai hoang thì có gắn một cây cờ ( cờ ra nước ngoài khai hoang
).
6.
Cờ Điểm Truyền Sư :
Điểm
Truyền Sư thì có 4 cây hoặc 5 cây cờ màu vàng.
7. Thanh khẩu phá giới :
Trong
quá trình giảng bài giảng chuyên đề, Trịnh Huynh có nhìn thấy một số đạo thân cờ
thanh khẩu, đoá sen trắng trên người đã biến mất. Bởi vì họ đã khai trai phá giới,
ăn mặn trở lại, dẫn đến huyền quan khiếu ảm đạm chẳng có ánh sáng.
Cho
dẫu đã đắc được lá cờ vàng hoặc đoá sen trắng do ơn trên ban, nếu như khai trai
phá giới, ơn trên cũng sẽ thu hồi lại.
Ảnh
hưởng của việc người lập nguyện thanh khẩu trường chay mà miệng ăn mặn :
A. Người có ý : Nếu là người có ý phá giới, thì
lá cờ thanh khẩu, đoá hoa sen trắng trên vai sẽ lập tức bị ơn trên thâu hồi.
Lưu
Điểm Truyền Sư gợi ý đối với trường hợp này : “ tại phật đường sau khi thỉnh
đàn, hiến lên bó nhang lớn, đốt lên tờ biểu văn sám hối, khấu đầu sám hối. Người
thật lòng hối cải thì sau đó lại lập nguyện thanh khẩu trở lại từ đầu.
Tiên
Phật từ bi nói rằng : “ Mỗi một người chỉ có một lần cơ hội sám hối ”.
B. Người vô ý : Do sơ suất hoặc không biết mà lỡ
ăn phải đồ mặn, có thể tạo thành tình trạng nôn mửa tháo dạ.
Lưu
Điểm Truyền Sư gợi ý : “ có thể đến phật đường thắp lên ngọn đèn phật, khấu đầu
sám hối, thỉnh trà cúng uống thì được rồi. ”
8. Ý nghĩa của các loại cờ màu sắc khác nhau
theo như trích dẫn trong bài huấn Quan Thánh Đế Quân Cứu Kiếp Độ Người Chỉ Mê :
“
Người có tội, Thần tỏ biết,
người
người trên đầu gắn cờ hiệu,
chẳng
nhận người, nhận cờ hiệu,
chiếu
theo cờ hiệu gặp thật báo;
cắm
cờ xanh, súng nổ pháo;
cắm
cờ đỏ, dùng lửa thiêu;
cắm
cờ đen, nước dìm chết;
cắm
cờ trắng, nếm dao thép;
duy
có tích phước hành thiện tốt,
cắm
cây cờ vàng Thần Thánh hộ…”
9. Đoá hoa sen trên xe :
Cầu
đạo, tu đạo để siêu sanh liễu tử, không chịu nỗi khổ luân hồi nữa. Bàn đạo, để
cho đời người của chúng ta càng thêm viên mãn. Tiên Phật nói rằng : “ có việc
thì gầy công dễ, không việc thì gầy công khó ”. Đạo trường có hoạt động, ví dụ
như bàn đạo, pháp hội, mở lớp nghiên cứu, … các đạo thân đều sẽ dụng tâm hộ
trì, đón tiễn mọi người đến tham dự, khiến cho hoạt động thuận lợi viên mãn.
Tiểu
Trịnh Huynh nhìn thấy các xe mà đón tiễn đạo thân đến phật đường thì bất luận
là các xe lớn nhỏ, xe máy, trong các xe ấy đều sẽ hiển hiện một đoá sen còn ngậm
nụ.
Xe
mà thường hay chở đạo thân thì là một đoá sen lớn nở rộ to bao gồm hạt sen.
Phàm
là các Điểm Truyền Sư có lãnh thiên mệnh, thì xe tự dụng đều có đài sen.
Sau
khi thông qua việc tìm cầu được sự chứng thực từ thầy Tế Công, Tiểu Trịnh Huynh
nói rằng : “ Chỉ cần là thành ý xuất phát từ nội tâm, phát tâm đón tiễn các đạo
thân thì trên xe đều sẽ có một đoá sen còn ngậm nụ. Còn bên trong những hoa đã
nở còn có các hạt sen thì là ngoài sự thành tâm phát tâm ra, còn chẳng có cái
tâm phân biệt đối đãi, xe càng lớn, đón tiễn đạo thân càng nhiều thì sẽ có một
đoá hoa đã nở, đồng thời bên trong hoa sen có hạt sen. Còn xe tự dụng của Điểm
Truyền Sư thì có toà sen, là bởi vì Điểm Truyền Sư từ khi cầu đạo đến nay, ôm đạo
phụng hành, ghi nhớ kĩ không quên, sau khi lãnh thiên mệnh thay Thầy truyền đạo,
dốc tận tâm sức trung thành, kiên trì giữ vững cương vị, hy sinh phụng hiến, độ
hoá chúng sanh, là đoá sen do sự khẳng định của ơn trên ban cho.
10. Sự thù thắng của việc quay về phật
đường khấu đầu.
A. Mồng 1, 15 :
Sau khi an toạ phật đường họ Trịnh, mỗi lần
mồng 1, 15, các đạo thân sẽ quay về phật đường hiến cúng khấu đầu. Lúc hiến
cúng, Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy các đạo thân quay về tham gia thì tổ tiên của
họ cũng quỳ ở phía bên ngoài cửa phật đường cùng nhau khấu đầu. Bên ngoài cửa
có Quan Pháp Luật Chủ và Lữ Pháp Luật Chủ đảm nhiệm Thượng Hạ Chấp Lễ, tổ tiên
nghe khẩu lệnh mà khấu đầu. Cảnh tượng này mỗi lần mồng 1, 15 hiến cúng đều sẽ
có.
B. Đêm giao thừa :
Vào lúc đêm giao thừa, các đạo thân quay về
tham dự hiến cúng khấu đầu, cùng với tổ tiên đều ở bên trong phật đường, bởi vì
đêm giao thừa mỗi năm là một lần duy nhất mà tổ tiên được ơn trên cho phép tiến
vào bên trong phật đường quỳ khấu đầu.
11. Trước khi an toạ phật đường :
Vào
cái hôm thiết lập phật đường, phật đường sẽ có một đoá sen nở rộ. Sau khi an toạ,
đoá hoa sen sẽ bay thẳng lên trời. “ Nhân gian một phật đường, trên trời một
đoá sen ”.
Thầy
Tế Công từ bi dẫn Tiểu Trịnh Huynh đi ngao du Vô Cực Lí Thiên để ấn chứng, nhìn
thấy Lí Thiên có một đoá hoa sen, bên trong có tên họ phật đường, và tên của những
người trợ đạo vào cái hôm an toạ, và chia làm danh sách : tài thí, pháp thí, vô
uý thí.
Phật
đường công cộng thường làm Thánh sự, thì trong đoá sen lại mọc thêm một đoá
sen, và có kim quang.
12. Sự thù thắng của việc tụng kinh
Khi
các đạo thân tụng kinh ở phật đường, Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy hai bên trái phải
mỗi bên có 3 vị thần hộ pháp đến hộ pháp, có Thiên Quan ghi chép người tụng
kinh tổng cộng niệm mấy bộ kinh và tên của các kinh ấy.
Khi
tụng niệm “ Đào Viên Minh Thánh Kinh ”, Tiểu Trịnh Huynh nhìn thấy thần hộ pháp
và Thiên Quan ghi chép, và có hai vị Thiên Long hộ pháp uốn lượn xoay vòng, mãi
cho đến khi tụng kinh xong mới biến mất.
Thầy
Tế Công Hoạt Phật từ bi rằng : “ chỉ cần tâm thành, cho dù không thắp nhang,
ông trời đều sẽ phù hộ ”. Tụng kinh có thể tụ tập thiện khí thiện Thần, khiến
cho con người thanh tịnh, gia đình càng hài hoà.
13. Những điều nên chú ý khi tụng
kinh :
Trong
nhà có phật đường hoặc phòng thờ thần minh, trước khi tụng kinh hãy hiến 3 nén
nhang và trà cúng ( 1 hoặc 3 cốc, đặt ở trên bàn thờ ).
Trong
nhà chẳng có phật đường hoặc phòng thờ thần minh thì hãy ở phòng khách hoặc chỗ
sạch sẽ thanh tịnh sáng sủa mà tụng kinh. Trang phục vẻ ngoài chỉnh tề. Hiến
nhang trầm và trà cúng ( phật đường Tiên Thiên chẳng cần thắp đèn Phật ).
Người
chưa ăn chay thì trước khi tụng kinh hãy đánh răng súc miệng trước.
Nếu
có bài vị tổ tiên thì tổ tiên sẽ ở hiện trường nghe kinh.
Thầy
Tế Công từ bi rằng : “ Lợi ích của niệm kinh không chỉ ở pháp thí, mà còn có thể
khiến cho bản thân nâng cao tâm tánh. Niệm kinh là để bản thân có thể hiểu rõ sự
áo diệu của kinh điển, pháp ngữ của Tiên Phật, cũng có thể để bản thân hiểu rõ
bản thân phải làm thế nào thì mới tốt hơn.
Niệm
kinh khiến cho bản thân tịnh tâm, hồi hướng cho các chúng sanh mà mình luỹ kiếp
đã làm tổn thương qua. Mượn nhờ vào sự gột rửa của kinh điển, pháp thí xoay
chuyển, có thể khiến cho những chúng sanh mà mình đã làm tổn hại qua sớm ngày
lìa khổ được vui; mượn nhờ vào lực lượng của Tiên Phật, phật quang phổ chiếu, sự
xoay chuyển của văn tự kinh điển mà sớm ngày siêu sanh lìa khổ, đấy là sức mạnh
của kinh điển. ”
Hình icon Show icon