1. Từ gốc cội để luận bàn
Đạo : Đạo là
gốc cội của trời đất, là mẹ của vạn vật, là tổng đầu nguồn của vạn giáo.
Giáo : Giáo
là sự giáo dục, dạy bảo, mục đích ở chỗ hoá các phong tục lề thói của dân gian
trở nên lương thiện, tốt đẹp, thế nhưng nguồn cội của nó là ở “Đạo”.
“Đạo” và “
Giáo” đều là do Lão Mẫu từ trên trời giáng xuống vì để độ hoá các Nguyên Thai
Phật Tử trở về nguồn cội. Thánh Nhân của Ngũ Giáo đều là phụng mệnh của Lão Mẫu
mà hạ phàm chuyển kiếp phân nhau gánh vác Ngũ Giáo, là do ơn trên vì để giáo
hoá chúng sanh ở những thời gian, khu vực, bối cảnh nhân văn khác nhau mà sáng
lập, mỗi vị giáo hoá một phương. Ngũ giáo đều là xiển thuật chân lý của đạo, chỉ
dạy cho chúng ta làm thế nào để khôi phục lại bổn tánh tự nhiên, là công phu tiệm
tu ( tu dần dần, từ từ ) từ ngoài vào trong. Ngũ giáo là năm cánh của một hoa.
Hiện nay do sự biến đổi của tự thân các giáo và sự đào thải của khí số, lúc này
nên là lúc hoa tàn. Lúc hoa nở thì tuy rằng hưng thịnh, thế nhưng hễ tới mùa
thì tự nhiên hoa tàn, đấy là quy luật của âm dương tăng giảm giữa đất trời. Đồng
thời lúc hoa tàn cũng sẽ là lúc kết trái. Ngũ giáo là vào lúc thiên thời chưa đến,
trước lúc chơn đạo vẫn còn chưa giáng thế phổ truyền, chỉ mới đơn truyền độc thụ
chớ chưa đại khai phổ độ, thì đến trước để lát đường, làm nền móng cho đại đạo
đại khai phổ độ sau này, tức là “ trước thiết vạn giáo truyền kinh điển, mạt hậu
nhất trước bàn thâu viên ”.
2. Từ trên pháp môn để luận Đạo
Đạo : là pháp
môn không hai, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, là đại pháp tối thượng
thừa mà Thánh Thánh, Tổ Tổ truyền nhau.
Giáo : là các
pháp bình đẳng, các pháp phương tiện, tám vạn bốn ngàn pháp môn, phổ biến ứng
cơ thuyết pháp, thuyết các pháp phương tiện, dùng văn tự giáo hoá để tải đạo.
3. Từ trên thời cơ truyền pháp mà luận bàn
Đạo : Có lúc ẩn,
có lúc hiện, ứng thời ứng vận, chẳng gặp đúng thời thì chẳng giáng, không gặp
đúng người thì không truyền.
Giáo : Thường
có, hữu giáo vô loại ( mọi người trong xã hội, bất cứ ai cũng đều có quyền được
học, được giáo dục, không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, sang hèn ) , giáo hoá
phổ biến.
4. Từ trên chủ quyền để bàn luận
Đạo : Thiên mệnh
chân truyền chủ quyền tại trời, Sư đồ mật truyền truyền bổn tâm.
Giáo : Công
tác giáo hoá chủ quyền tại người, Sửa bỏ những lề thói cổ hủ không tốt, tịnh
hoá nhân tâm.
5. Từ trên tông chỉ để bàn luận
Đạo : thuộc về pháp đốn ngộ, trực chỉ nhân tâm, kiến
tánh thành Phật.
Giáo : thuộc
về pháp tiệm tu ( dần dần, từ từ ), xiển thuật chân lý của Đạo, mục đích ở chỗ
loại bỏ đi những dục vọng truy cầu theo đuổi sự hưởng thụ vật chất, hoá thiên
tánh bẩm sinh, quay trở về bản tánh thuần phác chân thật.
6. Từ trên kết quả để bàn luận
Đạo : là pháp
giải thoát rốt ráo, pháp xuất thế gian.
Giáo : là
pháp thế gian, có thể hưởng những phước báo có hạn.
7. Dựa vào bản chất để
phân biệt
Đạo : là thể của Giáo, Đạo không có Giáo thì chẳng
hưng
Giáo : là dụng
của Đạo, Giáo chẳng có Đạo thì không dựng tạo nên.
8. Dựa vào công dụng để phân biệt
Đạo : Là tâm pháp truyền thụ.
Đạo có thể giải thoát luân hồi,
siêu sanh liễu tử
Giáo : Là những
lời giáo hoá.
Giáo khiến
cho người bỏ đi những cái tâm tà, quay về chánh niệm, không làm tất cả mọi việc
ác, làm tất cả mọi việc lành.
9. Dựa theo hình
thái để phân biệt :
Đạo : là cái
lí chân thường bất biến. Đạo chẳng vì chịu sự ảnh hưởng của thời gian, không
gian, chủng người, tập tục, bối cảnh văn hoá, văn tự ngôn ngữ mà có chỗ thay đổi.
Giáo : là các
pháp ứng cơ tồn tại. Giáo tuỳ vào sự khác nhau của thời đại, hoàn cảnh môi trường,
lịch sử, văn hoá, văn hoá dân tộc, do thời, do nơi, do người mà chế định ra các
phương thức phương pháp thích hợp với những thời điểm, hoàn cảnh và con người
tương ứng.
10. Dựa theo tông
chỉ để phân biệt:
Đạo : Đạo là
pháp đốn ngộ, trực chỉ nhân tâm, có thể đắc trước tu sau.
Giáo : Giáo
là dạy người quay trở về Đạo, tiệm tu mặc hoá ( tu dần dần, từ từ, khiến cho tư
tưởng và phẩm cách chịu sự cảm nhiễm, ảnh hưởng mà thay đổi trong sự bất tri bất
giác ) , tu trước rồi mới đắc sau.
11. Dựa theo sự truyền thụ để phân biệt:
Đạo : Chủ quyền của đạo ở nơi trời, là đốn pháp, là
pháp vô thượng, truyền ngoài tôn giáo.
Giáo : Chủ
quyền của giáo là ở nơi người, là pháp bình đẳng, miệng nói những lời khuyên bảo.
Những lời từ
bi của Tiên Phật đều nói rằng chúng ta đắc thụ một chỉ điểm của Minh Sư, gọi là
Đạo, giảng kinh thuyết pháp thì là Giáo. Đấy là sự phân biệt giữa Đạo và Giáo.
Các loại tôn giáo trên thế giới thảy đều khuyên người hành thiện, thế nhưng có
Giáo mà chẳng có Đạo thì không thể khiến cho người ta siêu sanh liễu tử, vậy
nên nói : “đọc nát ngàn kinh vạn điển, chẳng bằng một chỉ điểm của Minh Sư ”.
Thế nhưng nếu như đắc mà chẳng tu, thì cũng giống như chỉ nở hoa suông mà chẳng
kết trái, có duyên chẳng có phận, quả thật là đáng tiếc. Hy vọng rằng các vị đạo
thân hãy thật tốt mà nắm bắt lấy cơ duyên thời điểm tốt đẹp mà muôn kiếp khó gặp
này, nhất định cần phải thật tốt mà tu bàn đạo thuỷ chung đầu cuối như một,
tương lai sau này cũng có thể siêu bạt cửu huyền thất tổ, thành Thánh thành Hiền,
để báo đáp thiên ân sư đức, tận đại đại hiếu, về cội nhận Mẫu, đạt bổn hoàn
nguyên ( quay trở về lại bổn lai diên mục, khôi phục lại linh tánh bất muội vốn
có ban đầu ).
Đạo Giáng Thế Có Những Đặc
Điểm Gì ?
Đạo trực chỉ
kiến tánh, là pháp đốn ngộ, là mật bảo mà ngàn xưa chẳng dễ gì tuỳ tiện truyền
cho. Thời cổ xưa là đơn truyền độc thụ, nhất định cần phải “ tu trước đắc sau
”, tu hành phải từ bỏ gia đình vợ con, đi đến những nơi núi sâu động cổ, tu đến
ba ngàn công viên, tám trăm quả mãn, thì ơn trên mới phái Thiên Mệnh Minh Sư điểm
hoá truyền đạo, rồi mới siêu thoát sanh tử luân hồi, thế nhưng như thế thì một
trăm người cũng khó mà có một người thành tựu, vậy nên mới có câu nói : “ người
tu đạo nhiều như lông trâu, người thành đạo thì ít như sừng trâu vậy ”. Hôm nay
mọi người có thể dễ dàng đắc được như vậy, thật sự thì là do bởi thiên thời
thiên vận đã đến thời kì đặc biệt, ơn trên mới giáng xuống đại đạo tôn quý này.
Do nhân duyên khác thường không kịp đợi chúng sanh khổ tu khổ luyện để đắc đạo
nữa, nên mới đại khai phổ độ, bất luận là già trẻ nam nữ, kiếp này có tu hay
chưa tu, những ai có duyên thì đều có thể “đắc đạo trước rồi tu hành sau”. Sau
khi đắc đạo, chúng ta phải tu nội đức, hành ngoại công, đấy là ý nghĩa của đắc
trước tu sau.
Ngàn môn vạn
giáo, những người tu hành quá khứ do bởi không có thiên mệnh, cho nên cũng chẳng
cách nào độ thân hữu trở về cội đạo, thế nhưng hiện nay các đệ tử Thiên Đạo (
Tiên Thiên Đại Đạo ) triêm được Thiên Ân Sư Đức, chẳng những bản thân có thể liễu
thoát sanh tử, mà còn có thể độ hoá các thân hữu và những người hữu duyên cùng
trở về Lí Thiên, vậy nên mới nói “ một người có liên hệ mật thiết với biết bao
nhiêu tánh mệnh của chúng sanh ”. Chúng ta sau khi cầu đạo, thiên bảng ghi
danh, địa phủ xoá tên, thoát lìa sự chưởng quản của Diêm Vương, sau này không cần
phải đến địa phủ để báo đến nữa, đối với đại sự sanh tử đã có cảm giác an toàn
rồi, một kiếp tu một kiếp thành. Hiện nay tự tu bảy phần, trời xá ba phần thì
có thể tu thành tựu rồi. Người có ý niệm lành thì ơn trên tất sẽ phù hộ trợ
giúp, chỉ cần có ba phần tâm thì trời sẽ trợ đến bảy phần. Tham dự vào sự phổ độ
thời kì bạch dương của ơn trên tuy rằng chẳng có lương bổng, thế nhưng ơn trên
sẽ bù đắp lại cho mình đến ngàn lần, một vốn vạn lời. Trên đạo trường, mỗi lần
nghe xong một tiết chương trình học của lớp Tân Dân thì có thể tiêu 200 tiểu kiếp,
nếu chúng ta học xong lớp Tân Dân, lên xong 30 tiết thì có thể tiêu 6000 tiểu
kiếp; lên xong 5 năm lớp tiến tu thì bằng với việc tu 600 năm, xong một lớp thì
bằng với việc tu 120 năm. Trong Phật giáo có nói “ người tu hành có tiểu kiếp,
trung kiếp, đại kiếp ”, chúng ta hơn sáu vạn năm có nhiều kiếp như thế làm thế
nào để tiêu ? chính là tiêu như thế, thế nên nói lúc này là cơ hội tốt để tu
thành Tiên Phật.
Đạo Là Hiện
Nay Mới Có Hay Sao ?
Ơn trên giáng
đạo, có ẩn có hiện, nếu đang lúc ẩn giấu thì không thể nào biết sự áo diệu của
“Đạo” này, còn nếu như vào lúc hiển rõ thì ơn trên mới giáng chơn đạo, hạ lệnh
cho Minh Sư truyền chỉ cái tánh lý chơn truyền này. Nếu như thiên mệnh thâu về,
thì bất cứ vị Thánh Phật chưởng giáo nào cũng đều không dám vượt qua phạm vi giới
hạn nhất định, chúng sanh bèn khó mà cầu đạo nữa rồi. Cái gọi là “ hữu duyên
thì gặp được Phật xuất thế, vô duyên thì gặp Phật đã niết bàn ”, nghĩa là nói
người hữu duyên thì gặp được thiên mệnh giáng đạo, người vô duyên thì gặp thiên
mệnh đã thâu về, đạo đã ngưng độ. Vậy nên Tam Kì Phổ Độ khó gặp, những người muốn
cầu đắc chơn đạo thì cần phải nhanh chóng nắm bắt nhân lúc thời điểm tốt đẹp, nếu
lỡ qua cái cơ hội tốt đẹp rồi, thì phải đợi nguyên hội kế tiếp, 129,600 năm
sau. Tiên Phật phê huấn nói rằng : “đã ngưng độ, thuyền đã nhổ neo rồi, muốn cầu
đạo, tu đạo thì đã khó lại càng thêm khó”, thuyền nhổ neo chẳng đợi khách đến
muộn sau.
Đạo Chính Là Con Đường Tắt
Trở Về Cố Hương
Lão Mẫu từ bi
rằng : “ Đạo chính là con đường, đi nhất định cần phải có con đường, nhất định
cần phải dựa theo con đường mà đi, thế nhưng đường có xa có gần, có cao có thấp,
có bằng phẳng có gồ ghề lởm chởm, có sáng có tối. Đi đường ngay đúng thì là
thiên đường. Đi đường tà đường sai lệch thì rơi đoạ vào địa ngục đen tối. Thế
nhưng, đường có muôn ngàn lối, đường mà nhiều người tu hành hiện đang đi đều chẳng
phải là con đường tắt. Nay Lão Mẫu bèn giáng xuống một đường kim quang, đường
thông Tiên Thiên, một bước thượng đạt, siêu Khí Thiên, vượt Tượng Thiên, thẳng
lên cõi Thánh. Nay đúng vào thời Bạch Dương ứng vận, lệnh cho Di Lặc chưởng
Thiên Bàn, Cung Trường xiển Đạo Bàn, cùng bàn việc thâu viên, cứu vãn Tam Tào đồng
chứng bồ đề.
Hoàng Điểm
Truyền Sư của tổ Phát Nhất lúc bấy giờ khi cầu đạo là được đức Phật Thích Ca
Mâu Ni thị hiện cho ông ấy một cơ duyên chỉ dẫn cho cầu đắc đại đạo. Vào cái
hôm sau khi cầu đạo, trong giấc mơ ông Hoàng thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni chúc
mừng ông, bảo rằng chỉ cần đi theo bước chân của các Tiền Hiền thì có thể trở về
cố hương Phật quốc. Hoàng Điểm Truyền Sư nhân cơ hội đó bèn hỏi đức Phật Thích
Ca Mâu Ni rằng : “ các tông các giáo của thế giới thời buổi hiện nay họ cũng
đang hy sinh phụng hiến lợi ích cho chúng sanh, lẽ nào họ chẳng thể trở về cố
hương sao ? ” Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bèn thị hiện cho ông ấy thấy một bức vẽ,
trong bức vẽ ấy có rất nhiều con đường, duy chỉ có con đường chính giữa là đường
thẳng ( đường tắt ). Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ những con đường nhỏ quanh co
uốn khúc ấy nói rằng họ vẫn có thể trở về chốn cũ quê xưa, thế nhưng họ vẫn phải
đi rất nhiều con đường, phải trải qua thời gian rất dài rất lâu mới có thể trở
về. Vậy nên hôm nay chúng ta đắc đạo, được Thiên Mệnh Minh Sư chỉ điểm cho con
đường tắt, đấy là đã triêm Thiên ân sư đức, phải luôn tồn tâm cảm ân, luôn ghi
lòng tạc dạ.
Đạo truyền thế
giới cứu “ Tánh ” “ Mệnh ”,
Giáo truyền dạy
chúng sanh tu tâm,
Đạo là bổn thể
sanh muôn pháp,
Giáo khởi tác
dụng tịnh nhân tâm.
Đạo khả thoát
sanh tử, thành Phật,
Giáo tu khả tạo
phước đức công,
Kiếp sau hưởng
phước, còn sanh tử,
Sáu nẻo luân
hồi khó thoát vòng.
Đạo là chủ tể
vạn linh tánh,
Giáo dẫn dắt
gửi gắm thân tâm,
Đạo lấy giác
tánh phản tỉnh ngộ,
Giáo tuỳ
duyên phương tiện độ sanh.
Đạo rời tất cả
hữu vi pháp,
Giáo dạy người
từ hữu vi tâm,
Đạo, lý quán
triệt không thiên lệch,
Giáo nghĩa giới
quy có bất đồng.
Đạo vận ứng
thời mà phổ độ,
Các giáo mọi
thời luôn vận hành,
Đạo có ẩn, có
hiện tuỳ vận,
Truyền đúng
thời, đúng người, đúng căn.
Đạo nhờ giáo
hiển bày, tải đạo,
Muôn giáo thảy
đều từ đạo sanh,
Đạo và giáo
chẳng thể rời tách,
Hợp lại mới
khả thoát tử sanh.
Từ một gốc
sanh muôn cành lá,
Lá rụng quay
về nơi cội sanh,
“ Nhất bổn tản
vạn thù ” vô tận,
“ Vạn thù quy
nhất bổn ” cội sanh.
Ngũ giáo vốn
dĩ cùng một cội,
Người đời chẳng
ngộ khởi phân tranh,
Tâm khởi phân
biệt liền lìa đạo,
Lìa đạo, “ tu
đạo ” sao khả thành ?
Tám mươi bốn
ngàn pháp Phật dạy,
Thảy đều chẳng
rời một chữ Tâm,
Chẳng rõ “ Bổn
Tâm ” học vô ích,
Minh tâm kiến
tánh, Phật mới thành.
Đạo là con đường
in dấu Phật,
Thánh nhân
ngũ giáo chung một đường,
Khéo bày muôn
phương tiện chỉ dạy,
Ngộ đắc mới
khả về cố hương.
Một Số ấn chứng
kinh điển một chỉ điểm của Minh Sư là Đạo :
1.1. Đức
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết ngài Huệ Năng đã ngộ Bổn Tánh, nói rằng:
“Chẳng rõ Bổn
Tâm, học pháp vô ích. Như rõ Bổn Tâm mình, thấy Bổn Tánh mình thì gọi là trượng
phu, thầy của Trời, Người, là Phật”.
2.2. Có nhà sư hỏi thiền sư Quảng Pháp Viện
Nguyên:
“Từ xưa các
Thánh hướng chỗ nào mà đi?”
Tổ Nguyên
nói: “Đầu đường chữ thập”.
3. 3. Có một bửa, có ông Tăng chợt thấy Ngài Bố Đại
Hòa Thượng ( ngài Di Lặc ) đứng bên đường gần chợ, bèn hỏi rằng: “Hòa Thượng ở
đây làm chi ?”
Ngài liền đáp
rằng: “Ta đi hóa duyên”.
Ông Tăng thấy
vậy mới nói rằng: “Hóa duyên ở đâu nơi ngã tư như vậy ?”
Ngài trả lời:
“ Ngã tư chính là chỗ Ta muốn hóa duyên”.
4. Trong kinh thánh chúa jesus nói rằng : “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá của bản thân mình mà theo.”
(Mc 8,34)
"Hãy vào
cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang dẫn đến chỗ hủy diệt; nhiều người đi
vào cửa ấy! Còn cửa hẹp và đường chật dẫn vào sự sống, lại có ít người tìm đến."
( Ma-thi-ơ 7:13,14 )
Tóm lại, nếu
muốn tìm thẳng tận đầu nguồn nơi in dấu Phật, muốn ngộ bổn tâm bổn tánh, muốn
biết nơi mà từ xưa các Thánh hướng đi thì duy chỉ có bái Thiên Mệnh Minh Sư Tế
Công Hoạt Phật cầu Đạo, được đắc thọ tâm ấn của Phật Tổ thì mới có thể khai ngộ,
thấu tỏ huyền cơ, siêu sanh liễu tử.
Hình icon Show icon