Nghe nói tại hướng nam của sông Tể có
một vị thương gia giàu có, ông ấy thường xuyên phải đi thuyền ra ngoài bàn chuyện
làm ăn. Có một lần lúc ông ấy đi thuyền thì đột nhiên chiếc thuyền va vào đá ngầm
rồi chìm nghỉm, còn ông ấy thì chìm nổi trong biển lớn và gào to “ cứu tôi với
! cứu tôi với ! ”. Vừa đúng lúc ấy có một người đàn ông đánh cá nghe thấy tiếng
kêu gào cứu mạng của ông ấy thì liền vội vàng chèo thuyền qua bên đó cứu lấy
ông thương gia giàu có. Khi thuyền vẫn còn chưa đến chỗ của ông ấy, vị thương
gia giàu có đã rất nóng lòng thốt lên rằng : “ê, ê, này, này, mau đến cứu tôi với,
tôi là thương gia giàu của có ở sông Tể. Nếu ông cứu tôi lên thì tôi sẽ thưởng
ông một trăm lượng bạc làm tiền thù lao.” Vị ngư phu đã nhanh chóng cứu ông ấy
lên. Sau khi lên bờ, vị thương gia giàu có này nào ngờ đâu chỉ đưa cho ngư phu
có mười lượng bạc, vị ngư phu bèn nói : “Ông khi nãy rõ ràng nhận lời cho tôi một
trăm lượng bạc làm tiền thù lao kia mà, cớ sao bây giờ chỉ được có mười lượng
thôi vậy ? ”. Vị ngư phu bèn trả lời rằng : “Ông chỉ là một người đánh cá, mỗi
ngày cùng lắm chỉ có thể kiếm vài lượng bạc, nay tôi cho ông mười lượng, ông
còn chê không đủ, ông thật là người hoang tưởng ! ” . Vị ngư phu chẳng còn cách
nào khác liền rời đi một cách thất vọng. Sau đó, vị thương nhân này lại một lần
đi thuyền, chiếc thuyền lại va vào đá ngầm rồi chìm nghỉm, vị thương gia giàu
có lại chìm nổi trong biển lớn, và gào to “ cứu tôi với ! cứu tôi với ! ”, cũng
vừa đúng lúc ấy, vị ngư phu đã cứu ông ấy lần trước cũng đang ở gần đó. Vị ngư
phu biết lại là vị thương nhân giàu có ở sông Tể này, thì bèn nói với các ngư
phu khác rằng : “ Hắn ta chính là cái ông thương gia giàu có mà không giữ tín lần
trước đó, hắn ta bảo rằng sau khi cứu hắn ta lên thì sẽ thưởng cho một trăm lượng
bạc làm thù lao, thế nhưng mà kết quả hắn ta chỉ cho tôi có mười lượng, hắn quả
thật là người không giữ tín, cho dẫu hắn ta lần này chết chìm thì tôi cũng sẽ
không cứu hắn nữa đâu. ” Vậy nên các ngư phu đều chỉ khoanh tay đứng nhìn ! Cuối
cùng, vị thương nhân này bèn cứ như thế, do bởi không có người đi cứu hắn nên kết
cục đã bị chết đuối rồi ! Vị thương nhân này do nói mà chẳng giữ lời, kết quả
thì ngay cả đến tính mạng của bản thân cũng đều chẳng còn ! Vậy nên làm người
thì nhất định phải giữ tín, và cũng từ đây có thể thấy rằng “đức tín” là rất
quan trọng đấy.
Ý nghĩa của “ Tín ” là giữ tín, thành
tín, đáng tin, lòng tin. Phạm vi của tín rất rộng, bao hàm rất nhiều loại đức.
Chúng ta làm người xử thế phải giữ tín, xử sự phải thành tín, lời nói hành động
đều phải có sự thành tín, làm người phải đáng tin. Đối với đạo, đối với Tiên Phật
đều phải có lòng tin. Vậy nên làm người nhất định phải có đức tín.
Ý nghĩa của “đức” là hành vi hoàn mĩ của
tự tánh bộc lộ tự nhiên. Trong sách Luận Ngữ, Khổng Lão Phu Tử cũng có nói : “
tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập ”, ý nghĩa chính là từ xưa đến nay, con
người có sống thì nhất định sẽ có chết. Nếu như chúng ta chẳng có đức tín, thì
khó mà đứng giữa trời đất. Vậy nên chúng ta làm người xử sự, nhất định phải giữ
chữ tín, có sự thành tín. Tục ngữ nói rằng nếu hợp với đạo hợp với đức, nói ra
được thì phải làm được. Nếu không thì không thể đắc được sự tín nhiệm trọng dụng
của người khác. Dưới đây đưa ra vài điểm để cùng mọi người cùng nhau khích lệ,
chính là tầm quan trọng của đức tín đối với con người.
1.Một là được người tín nhiệm :
Một người có thể có sự đáng tin, sự
thành tín thì tự nhiên có thể được người ta tín nhiệm.
Ví dụ như có một vị đạo thân nọ, trước
kia là làm tài xế, mỗi lần đổ xăng đầy bình thì đều là 60 đồng. Anh ta cứ báo với
công ty con số thực là 60 đồng. Thế nhưng những tài xế khác thì lại khác, rõ
ràng là đổ xăng đầy bình thì 60 đồng, nhưng họ lại báo với công ty con số 100 đồng.
Trải qua một thời gian, ông chủ công ty bèn cảm thấy rất kì lạ, cớ sao mà vị
tài xế này phí đổ xăng lại ít tiền như vậy, còn những tài xế khác thì phí đổ
xăng lại nhiều tiền như vậy ! Sau đó thì ông chủ liền biết chuyện, vị tài xế đạo
thân này là người thật thà, thành thật đáng tin, sẽ không lừa dối ông chủ, thế
nên đã thăng chức cho anh ta, cứ mãi từng bước lên cao, lại còn lên đến chức
giám đốc nữa. Do bởi vị tài xế này có đức tín nên anh ta mới có thể đắc được sự
đánh giá cao của ông chủ. Vậy nên người đáng tin thì là sẽ được người ta tín
nhiệm.
Lại ví như : nếu như chúng ta muốn mua
thuốc, thông thường đều sẽ chọn những nhà thuốc có Logo thập tự giá (十), bởi vì mọi người đều biết rằng những
nhà thuốc có Logo chữ thập là đại biểu cho sự có uy tín, có đức tín, sẽ không
bán thuốc giả. Thế nhưng ngược lại, ở những nhà thuốc không có logo chữ thập
thì sẽ không mua, bởi vì không có lòng tin đối với họ, vả lại không có sự bảo đảm.
Thế nên cho dẫu là giá rẻ đi nữa, thông thường đều sẽ không lui tới mua.
Ví dụ : Chúng ta đến chợ mua rau,
chúng ta thông thường đều sẽ chọn những tiệm rau mà có khá nhiều người lui tới,
bởi vì những tiệm bán rau này có sự đáng tin cậy, sẽ không cân dối gian, còn những
tiệm rau mà ít người lui tới thì do bởi cân gian dối cho nên dần dần ít người
lui tới. Nếu là những tiệm rau cân đủ thì có thể có được sự tín nhiệm của người
ta, việc làm ăn sẽ càng lúc càng phát đạt đắt khách.
Có một vị khôn đạo nọ, trước kia làm
công nhân may mặc; các công nhân thông thường đều phải đem những bộ đồ đã làm
xong giao cho tổ trưởng kiểm tra xem coi có đạt yêu cầu chất lượng hay không.
Còn vị khôn đạo này lúc bình thường làm việc đều rất tận tâm và tận trách nhiệm,
tổ trưởng rất có lòng tin đối với cô ấy, thế nên thường thì đều không cần phải
kiểm tra thành phẩm của cô ấy. Vậy nên làm việc nếu như tận tâm tận sức thì là
một người có sự thành tín, có thể được người ta tín nhiệm.
Chương Vệ Linh Công trong Luận Ngữ có
nói : Có lần kia, Tử Trương hỏi thầy về việc đi lại. Đức Khổng nói: “Ngôn trung
tín, hạnh đốc kính, tuy Man Mạch chi bang, hành hỹ. Ngôn bất trung tín, hạnh bất
đốc kính, tuy châu lý, hành hồ tai? Lập, tắc kiến kỳ tham ư tiền dã. Tại dư, tắc
kiến kỳ ỷ ư hành dã. Phù, nhiên hậu hành” . Tử Trương hỏi Đức Khổng Tử : con
người phải làm thế nào mới có thể đi đến đâu cũng đều đi được một cách thông
thuận đây ? Khổng Tử bèn nói với Tử Trương rằng lời nói phải trung tín, hành động
phải dốc lòng thành thật kính cẩn, thì dù là đi đến những nơi mọi rợ cũng đều
có thể đi được một cách thông thuận. Trái lại, nếu như nói lời không trung
thành chẳng đáng tin, làm việc không dốc lòng kính cẩn thành thật, thì cho dù ở
nơi quê hương mình, e rằng cũng đều không đi lại được một cách thông thuận. Vậy
nên một con người lúc nào cũng phải ghi nhớ đến sự trung tín và dốc lòng thành
thật kính cẩn. Tử Trương nghe lời dạy bảo của Đức Khổng Phu Tử rồi thì bèn đem
lời ấy viết trên dải áo của mình để tiện lúc nào cũng đều chú ý và nhắc nhở bản
thân.
Nghe nói là vào thời Bắc Nguỵ, có một
người tên gọi là Triệu Nhu, từ nhỏ đã có đức hạnh cao thượng và tài năng học vấn
phong phú. Có lần nọ, Triệu Nhu trên đường đi nhìn thấy một người đi đường đánh
rơi một xâu tràng hạt bằng vàng, bèn lập tức gọi người đi đường ấy và đem xâu hạt
tràng bằng vàng ấy giao trả lại cho chủ của nó. Anh ta hoàn toàn không vì tài của
bất nghĩa mà động tâm. Lại có một lần nọ, có người đã gửi vài trăm cái xẻng cho
Triệu Nhu nhờ bán giùm, anh ta và con anh ta cùng nhau đem xẻng đến chợ, có người
muốn mua xẻng này, thế nhưng chỉ có thể trả giá thấp, con trai của Triệu Nhu cảm
thấy quá rẻ bèn không muốn bán. Thế nhưng Triệu Nhu bảo với con rằng : chúng ta
là người làm ăn, nhận lời người ta thì nên thực hiện lời hứa, không thể vì bán
rẻ mà không muốn bán, như vậy thì lẽ nào chẳng phải là đã đánh mất đi sự đáng
tin cậy đó sao, vậy nên bèn chiếu theo giá gốc ban đầu mà bán cho người ấy. Sau
này, người đó sau khi đã biết chuyện này rồi thì đều ca ngợi Triệu Nhu có sự
thành tín, là người đáng tín nhiệm.
“ Thành tín” là sự
quảng cáo tốt nhất của các thương nhân, thương hiệu là tài sản vô hình của
thương nhân, mà thương hiệu thì là do sự thành tín gầy dựng nên. Người có đức
tín thì ngoài việc có thể đắc được sự tín nhiệm của người khác ra, còn có điểm
thứ hai chính là lương tâm an vui.
2.Lương tâm an vui
Nếu như chúng ta có thể giữ tín, thì
lương tâm bèn sẽ an vui. Một người mà có giữ tín, thì lời nói ra nhất định sẽ
làm, nhất định giữ lấy lời hứa. Những việc mà chúng ta đã hứa thì phải nhất định
làm được, vậy lương tâm mới có thể an vui, vốn là sự biểu hiện của đức hạnh
chúng ta. Trái lại, nếu như những việc mà chúng ta đã hứa hẹn mà tự bản thân
làm không được thì lương tâm sẽ không thoải mái, không an vui, ngủ không được …
Nghe nói có một vị đạo thân, có một lần
nhận lời rằng mồng một sẽ đem đồ đến phật đường, thế nhưng đến mồng một rồi, do
anh ta cảm thấy không khoẻ trong người, bèn nói với các vị tiền bối xin nghỉ
ngơi không đến phật đường, đợi đến hôm mười lăm mới đem đồ đến phật đường. Sau
đó đến hôm mười lăm, anh ta vẫn chưa khỏi bệnh, thế nên bèn không muốn về phật
đường. Thế nhưng do bởi anh ta cảm thấy mồng một đã không mang đồ đến phật đường
rồi, trong lòng đã rất không an vui, thế nên anh ta cảm thấy rằng bất luận
không khoẻ thế nào đi nữa, lần này đều nhất định phải về Phật đường. Sau khi
anh ta về đến Phật đường, mọi người đều biết anh ta không khoẻ, các đạo thân đều
hỏi han, có một số đạo thân còn nhắc nhở anh ta phải uống thuốc đúng giờ, vị đạo
thân này bèn trả lời rằng : “ tôi không cần uống thuốc nữa rồi, bởi vì tôi bây
giờ cảm thấy rất vui và được an ủi, không cảm thấy không khoẻ trong người nữa.
” Vậy nên có đức tín thì là tốt thế đấy, đến cả bệnh cũng đều có thể giảm thiểu.
Hậu học còn nhớ bản thân mình lúc vừa
mới cầu đạo rất ít khi về phật đường, không giống như mọi người có trí tuệ thường
quay về phật đường nghe đạo rõ lý. Có một lần, lúc tôi sắp rời phật đường để về
nhà, Tiền bối rất từ bi nói với tôi rằng mồng một lần sau nhớ về phật đường,
tôi lúc ấy đã tuỳ miệng nhận lời. Thế nhưng khi đến mồng một, hậu học vốn dĩ
không có nghĩ đến việc về phật đường, nhưng không biết sao trong lòng cảm thấy
rất không an vui, bởi vì tôi đã nhận lời Tiền Bối rằng sẽ về phật đường, là
không được thất tín đâu. Vậy là hậu học chỉ còn cách quay về phật đường, và đến
phật đường rồi thì tôi cảm thấy rất vui, bởi vì có thể giữ đức tín, nên lương
tâm cảm thấy rất an vui.
Lại nghe kể có vị càn đạo trước kia là
làm bên tóc thẩm mĩ, mọi người đều biết là nghề này đến cuối năm là rất bận đấy.
Lúc ấy, có một vị khách đã chọn loại thuốc uốn tóc 400 đồng để uốn tóc, thế
nhưng vừa đúng lúc ấy thì loại thuốc uốn tóc 400 đồng ấy đang thiếu hàng. Vậy
là vị càn đạo ấy bèn bảo với vị khách hàng rằng loại thuốc uốn tóc 400 đồng vừa
hết hàng, để anh ta chọn loại thuốc uốn tóc khác đắt hơn chút hoặc rẻ hơn chút
thay thế. Vị càn đạo này thà rằng mất khách, cũng không muốn dối gạt khách
hàng, bởi vì muốn lương tâm được an vui. Sau đó thì việc làm ăn của vị càn đạo
này còn dần dần tốt lên. Trái lại, một viện thẩm mĩ tóc khác thì không vậy, dù
là khách hàng chọn loại thuốc uốn tóc giá gì thì thật ra cũng đều là một loại
thuốc như nhau. Sau đó bị khách hàng biết rằng anh ta làm ăn không thành tín,
cho nên anh ta không chỉ không có khách hàng hay lui tới, lại còn bị người ta
bêu xấu khiến cho khắp đầu đường cuối phố đều biết, lương tâm của bản thân cũng
không được an vui. Chúng ta kết giao qua lại với bạn bè phải nói mà giữ tín.
Luận Ngữ Hữu tử viết:" Tín cận ư
nghĩa, ngôn khả phục giã. Cung cận ư lễ, viễn sỉ nhục giã. Nhân bất thất kỳ
thân, diệc khả tông giã". Ông Hữu tử nói rằng: " Mình hứa với ai điều
gì mà hợp nghĩa thì mình nên giữ lời hứa ấy. Đối với người mình giữ được sự
cung kính hợp lễ thì mình tránh khỏi sự xấu hổ nhục nhã. ” Đức tín phải hợp
nghĩa, chúng ta trước hết có thể giữ tín, nếu như là lời hứa không hợp nghĩa
thì không giữ tốt cái tín này. Ví dụ như người nào đó có việc gấp cần mượn tiền
của bạn, bạn đã nhận lời anh ta rồi, thế nhưng sau đó mới biết là anh ta dùng để
cờ bạc hoặc gái gú, thì cái lời hứa này bèn không giữ được rồi, bởi vì bạn cho
anh ta mượn tiền thì trái lại đã làm hại anh ta, vả lại lương tâm của mình cũng
sẽ không an vui. Người có đức tín thì ngoài việc lương tâm có thể an vui ra,
còn có thể tu đạo tất thành.
3. Tu đạo tất thành
Chúng ta đối với đạo phải có sự thành
tín, thì có thể tu đạo tất thành. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng ; “ lòng tin là bước
đầu vào đạo, là mẹ của tất cả các công đức. Lòng tin hay nuôi lớn tất cả các
căn lành. Lòng tin hay tựu quả Bồ Đề của Phật. ” ý là nói lòng tin là cái nhân
chính giúp chúng ta tu đạo và hành công lập đức. Lòng tin cũng có thể giúp
chúng ta nuôi lớn mọi căn lành. Trong nhân, nghĩa, lễ, trí nhất định phải có
tín. Tín là trung ương mậu kỉ thổ, cũng là phương thốn bảo địa của chúng ta,
cũng là nơi sở tại của linh tánh. Tín là ở chỗ một điểm chính giữa của chữ thập,
mà có thể thống trị khống chế nhân, nghĩa, lễ, trí tứ đoan, lại còn có thể kiêm
đủ muôn thiện.
Chúng ta tu đạo lập nguyện, lập nguyện
thì là phải giữ tín, lời hứa đối với Tiên Phật đã hứa rồi thì chúng ta phải giữ
tín, gọi là lập nguyện phải liễu nguyện, thì tu đạo mới có thể thành công. Ơn
trên giáng đạo là vì chúng sanh thế giới ta bà mà giáng đấy. Thiên Nhiên Cổ Phật
rằng : “ các con một chút tư tâm thiên kiến đều chẳng thể xả, một chút cái tâm
thất tình lục dục đều chẳng thể dứt bỏ, một chút lòng từ bi bi thiên mẫn nhân đều
chẳng đem ra được, một chút khổ nạn thì liền không có lòng tin đối với đạo, các
con ngay đến cái nguyện của bản thân đều chẳng thể liễu, thì lại làm sao có thể
kế thừa chí của thầy, cứu thế độ nhân liễu cái nguyện của thầy ? ” bởi vì Phật
nói rằng lòng tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của mọi công đức; đối với đạo có
lòng tin thì mới hành công liễu nguyện, mới trưởng dưỡng mọi căn lành. Chúng ta
tin cái đạo này, tin chân lý, thì tu đạo mới thành công. Chỉ cần chúng ta có
lòng tin đối với đạo, chịu tu đạo, bàn đạo thì tương lai nhất định có thể tu đạo
tất thành. Người tu đạo thành công thì nhất định chắc chắn sẽ trung với lời hứa
của bản thân, tu kỉ độ nhân, sẽ không “độc thiện kì thân” mà phải “ kiêm thiện
thiên hạ”. Một người mà xem trọng lời hứa của bản thân, mọi người nói xem, người
ấy sẽ tu đạo thành công hay không ? Cũng giống như ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đã từng
phát đại nguyện tầm thanh cứu khổ, giữ tốt đức tín, nên ngài tuỳ duyên cứu độ
khắp các chúng sanh, cứu bạt những nỗi khổ của chúng sanh, do dó ngài Quán Âm
có đức tín, tu đạo tất thành.
Đức tín nếu đã có thể khiến chúng ta
tu đạo thành công, lương tâm an vui, xử thế lại được người khác tín nhiệm, vậy
thì chúng ta nên bồi dưỡng đức tín như thế nào đây ?
Thứ nhất là, ngôn hành hợp nhất. Chúng
ta nói được thì phải làm được, tuyệt đối chớ có ăn quàng nói bậy lung tung, phải
lời nói và việc làm nhất trí với nhau. Chúng ta làm người lập thân xử thế, chớ
có mà tuỳ tiện nói suông, đã nhận lời người ta rồi thì nhất định phải làm được,
không thể thay đổi. Tam Tự Kinh cũng có nói :
“Phàm xuất
ngôn,Tín vi tiên.
Trá dữ vọng, Hề khả yên.
Thoại thuyết đa, Bất như thiểu.
Duy kỳ thị, Vật nịnh xảo.
Gian xảo ngữ, Uế ô từ.
Thị tỉnh khí, Thiết giới chi.
Nghĩa là :
Làm người phải trọng xuất ngôn
Xuất ngôn chữ tín luôn luôn làm đầu
Điêu sai dối trá còn lâu
Làm người thất tín lấy đâu làm người
Nói ít còn hơn nhiều lời
Nói điều đúng phải đừng chơi khéo sàm
Lời bậy bạ, tiếng gian thâm
Đầu đường xó chợ chớ ham nói bừa…
Chúng ta mở miệng nói năng, trước hết
phải lấy sự thành tín đi đầu. Nếu như đã nhận lời người ta thì nhất định phải
tuân giữ lời hứa. Nếu là những việc làm không tới thì chúng ta tuyệt đối chớ có
tuỳ tiện nhận lời, tuyệt đối chớ có dùng thủ đoạn lừa dối, và chớ có dùng những
lời ngon tiếng ngọt. Nói nhiều chi bằng nói ít, nói ít chi bằng nói lời tốt,
nói lời phải vừa ích lợi, lời nên nói thì nói, không nên nói thì không nói.
Chúng ta lập thân xử thế cần phải cẩn thận lời nói hành động.
Trong sách Luận Ngữ, Khổng Phu Tử cũng
có nói rằng : “ Quân tử dục nột ư ngôn nhi mẫn ư hành. ” ( Người Quân tử chậm
rãi ở lời nói, nhanh chóng ở hành động ). Quân tử khi nói lời thì là rất cẩn thận,
thế nhưng kiểu cách nói chuyện thì có vẻ như là rất chậm rãi, lời nói không tuỳ
tiện dễ dàng thốt ra miệng, thế nhưng khi làm việc thì rất nhanh chóng, thực hiện
một cách rất lanh lợi, xưa nay đều không cẩu thả lơ đễnh, bởi vì nói ra được
thì phải làm được.
Nghe nói thời Tống Thái Tông, có người
tên là Lữ Mông Chánh. Khi ông vừa mới được điều vào triều đình làm quan, có người
nói rằng loại người như Lữ Mông Chánh cũng có thể vào cung tham gia hoạt động
chính trị hay sao ? Những lời này bèn truyền đến chỗ bạn bè của Lữ Mông Chánh.
Họ đi điều tra rõ xem coi rốt cuộc là ai đã nói lời này. Lữ Mông Chánh sau khi
biết chuyện thì bèn khuyên bảo bạn của ông ấy rằng : “ Các ông không cần điều
tra đâu, cho dù là biết tên của hắn thì sẽ chỉ vĩnh viễn ghét hắn mà thôi, vẫn
là không biết sẽ tốt hơn. ”
Có một lần, Hoàng Đế muốn phái người đại
diện ngoại giao tới phương bắc, do đó bèn hỏi ý kiến của Lữ Mông Chánh. Lữ Mông
Chánh bèn tiến cử một người nọ, nhưng Hoàng Đế thì rất không vui, và hỏi ông ấy
thêm hai lần, kết quả Lữ Mông Chánh cũng là tiến cử người đó. Sau đó Hoàng Đế
bèn hỏi : “ cớ sao ngươi nhất định muốn tiến cử người này ? ”. Lữ Mông Chánh
bèn đáp : “ Tôi không hy vọng dùng cách nịnh hót để chiều theo tâm ý của Hoàng
Thượng, cho nên không thể tuỳ tiện thuận tùng theo ý của Hoàng Thượng, bởi vì
như vậy thì là sẽ nguy hại cho đại sự của quốc gia ”. Do bởi Hoàng Thượng trước
giờ vẫn rất kính trọng độ lượng của Lữ Mông Chánh, vậy nên bèn đồng ý với sự tiến
cử của ông ta, còn người mà Lữ Mông Chánh đã tiến cử quả nhiên cũng không phụ
lòng mong mỏi của mọi người, đã đạt thành nhiệm vụ một cách rất viên mãn. Tống
Thái Tông vì sao phải tín nhiệm Lữ Mông Chánh vậy ? Nếu như Lữ Mông Chánh bình
thường ngôn hành không hợp nhất, thì Hoàng Đế lại làm sao có thể tiếp nạp sự kiến
nghị của ông ấy được ! Vậy nên cái mà thật sự khiến cho người ta tin tưởng là sự
thành tín, chớ không phải tài ăn nói. Người chỉ có tài ăn nói mà chẳng có sự
thành tín, thì sau này sẽ do bởi chính tài ăn nói mà chuộc hoạ vào thân, vậy
nên chúng ta nói lời thì phải ngôn hành hợp nhất, có đức tín.
Ví dụ như chúng ta đã nhận lời quay về
phật đường giúp đỡ, thì chúng ta phải ngôn hành hợp nhất, bất luận là mưa gió
đi chăng nữa thì đều phải quay về phật đường giúp đỡ, hoặc tiết mục truyền hình
hôm này là đại kết cục của bộ phim, thì thà rằng trở về phật đường giúp đỡ cũng
không xem phần đại kết cục của bộ phim ấy, do bởi mọi người đều có thể giữ tín,
tu đạo mà ngôn hành hợp nhất là điều giúp chúng ta thành đạo.
Phật Đà trong kiếp quá khứ đã từng có
một kiếp là vị Nhẫn Nhục Tiên Ông, bị Ca Lợi Vương chặt đứt tứ chi mà trong
lòng ngài ấy hoàn toàn không khởi tâm sân hận, lại còn hứa hẹn nói với vua Ca Lợi
rằng : “Đến khi nào tôi thành Phật, thì ông sẽ là người đầu tiên tôi độ cho
thành đạo nghiệp. ” Do bởi Đức Thích Ca rất có đức tín, nói ra được thì phải
làm được, vậy nên sau khi Đức Thích Ca thành Phật thì Ngài đến vườn Lộc Uyển của
xứ Ba la Nại để độ đầu tiên cho tôn giả Kiều Trần Như tức là vua Ca Lợi trong
kiếp xa xưa.
Lại từng có một kiếp, Đức Phật Thích
Ca từng là vua Nguyệt Quang, thường làm hạnh bố thí, ai muốn xin gì cũng cho.
Lúc ấy có một người dòng Bà La môn tên là Lao Độ Sai đến gặp vua Nguyệt Quang
muốn xin đầu của vua. Vua Nguyệt Quang nói : “ Ngài muốn dùng gì xin cứ nói, dầu
khó khăn đến đâu, nếu có thể tôi xin biếu ngài ! ”
Lao Độ Sai nói : “ Ngài bố thí tiền, của,
thức ăn, cho đến mọi vật, tuy có phúc báo nhưng chưa lớn bằng phúc bố thí vật
trong thân mình. Vậy tôi chỉ xin cái đầu của nhà vua, có thể được xin cho biết
? ”.
Nhà vua nói : “Dạ ! xin vui lòng biếu
Ngài một cách thành thực.”
-“Ngài cho tôi bây giờ, hay ngày nào
?”
-“Dạ, xin khất Đại Đức bảy ngày nữa.”
Sau đó nhà vua sai các quan cỡi voi đi
tám ngàn dặm báo cáo cho trong nước mọi người biết tin vua muốn thực hành bố
thí. Mặc cho một vạn quan đại thần ra sức can ngăn, mặc cho hai muôn bà phu
nhân và năm trăm thái tử gieo mình xuống đất khóc lóc xin vua miễn bỏ việc bố
thí đầu, nhưng ngài vẫn không thay đổi quyết định bố thí đầu, và khi Lao Độ Sai
múa dao chém ngang cổ vua một nhát rất mạnh, đầu rơi vào tay vua, nhà vua kính
cẩn dâng lên biếu Lao Độ Sai.
Do bởi Đức Thích Ca ngài ấy có thể
ngôn hành hợp nhất, có đức tín, nên kết quả tu thành chánh quả.
Muốn hành trì đức tín, thì ngoài việc
phải ngôn hành hợp nhất ra, còn có điểm thứ hai chính là “ trọng hứa giữ tín ”.
Thứ hai, “Trọng hứa giữ tín” : tức là
lời nói phải cẩn thận, không tuỳ tiện đưa ra lời hứa, nói ra được thì phải làm
được, tuyệt đối chớ có mà nói năng tuỳ tiện. Chẳng hạn như nếu mình đã quyết định
rằng 5 giờ sáng mai thức dậy tập thể dục, có quyết định này rồi thì ngày mai
vào thời gian này nhất định không được tham ngủ, phải thức dậy tập thể dục, đấy
chính là giữ tín, giữ lấy lời hứa của bản thân, vậy nên chúng ta chớ có xem nhẹ
lời hứa.
Lại ví như ngày mai mình muốn đi thăm
bạn, thế nhưng đến ngày thứ hai thì có thể đột nhiên sẽ thay đổi ý định không
muốn đi, như vậy đều là đánh mất đi chữ tín của bản thân. Lại hoặc là trong
lòng nghĩ mình hôm nay nhất định phải làm tốt công tác, hoặc phải học bài học đến
thuộc lòng, trả bài được lưu loát mới có thể đi ngủ. Lúc chúng ta nghĩ đến thì
có thể tâm vô cùng kiên quyết, nhưng sau đó công việc lại chưa làm tốt, học bài
lại chưa thuộc, bởi vì cảm thấy rất mệt mỏi, lại thêm buổi tối ngủ không ngon
giấc, đến lúc ấy bèn sẽ thay đổi quyết định của mình, như vậy thì sẽ đánh mất
đi tín niệm của bản thân. Do vậy nhất định phải dùng những hành vi thái độ thường
ngày của bản thân để đi làm mục tiêu mà điều phục, từ cạn vào sâu, từ từ tự
nhiên bèn sẽ làm được tốt, nhất định có thể sản sinh tính quyết đoán kiên cố vững
chắc. Chúng ta phải làm được là người có định tính. Nếu như nhận được những lời
hoặc những món đồ mà bạn bè uỷ thác nhờ vả, hễ một khi đã nhận lời rồi thì phải
y theo lời hứa mà làm, tuy rằng là chuyện nhỏ cũng chớ có xao nhãng biếng nhác.
Chúng ta làm bất cứ việc gì cũng đều phải có tín. Đối với những việc mà mình đã
hứa hẹn với người ta, hoặc đối với những lời mà mình đã nói, hoặc ngay cả đối với
những lời mà mình đã nói đã hứa với bản thân cũng đều phải trọng hứa giữ tín.
Chẳng hạn như đã nhận lời với Điểm Truyền
Sư rằng hôm nay về phật đường nấu ăn, ai dè có bạn hẹn đi uống trà, thế là bèn
gọi điện về phật đường, thông báo với Điểm Truyền Sư từ bi rằng : “ Hậu học hôm
nay có việc, phải xin nghỉ phép ”. Thế là do bởi nhà bếp đã thiếu đi một người,
trở nên rất bận, ai cũng bận làm đến đầu tắt mặt tối. Vậy nên chúng ta phải trọng
hứa giữ tín, phải có đức tín.
Lại ví như có một vị đạo thân đã nhận
lời với Tiền Bối về phật đường nấu ăn, ai dè đến hôm lại có chút không khoẻ
trong người, vốn dĩ không muốn về phật đường, sau đó trong lòng nghĩ nếu mình
đã hứa với Tiền Bối rồi thì dù là mình không khoẻ, có chút vất vả đi nữa cũng
phải trọng hứa giữ tín trở về phật đường nấu ăn. Vị đạo thân này thật là rất có
đức tín. Thật ra thì ngoài việc ở phật đường phải trọng hứa giữ tín ra, chúng
ta ở trong xã hội và trong gia đình cũng đều phải trọng hứa giữ tín.
Có vị đạo thân nọ đã hẹn bạn bè đi uống
trà lúc 10 giờ sáng, ai dè lúc 11 giờ rồi mà bạn của cậu ta vẫn chưa đến, thế
là vị đạo thân này bèn gọi điện thoại cho bạn cậu ta. Thì ra là bạn của cậu ta
vẫn còn đang ngủ nướng trong nhà, bạn của cậu ta lại còn nói : “ tôi chỉ là nói
đùa với cậu thôi ”. Hãy thử nghĩ xem, lần sau còn có người dám hẹn với cậu ta nữa
không ? Chúng ta tuyệt đối chớ có giống như người bạn của vị đạo thân này.
Tử viết: “Quân tử bất trọng tắc bất
uy, học tắc bất cố; chủ trung tín, vô hữu bất như kỉ giả, quá tắc vật đạn cải”.
Khổng tử nói: “Người quân tử không
trang trọng thì không uy nghi, học tất không vững (không đạt lí); Quân tử lấy
chữ trung và chữ tín làm chính, không kết bạn với người không (trung tín) như
mình; có lỗi thì chớ ngại sửa đổi”. Vậy nên bất luận chúng ta làm người xử sự đều
nhất định cần phải lấy sự trung thành đáng tin làm chính, kết giao bạn bè phải
cẩn thận, nếu như đã có lỗi lầm thì tuyệt đối chớ có sợ khó sợ sửa đổi, nhất định
phải sửa lỗi. Chẳng hạn như chúng ta đã nhận lời hứa hẹn với bạn 10 giờ đi uống
trà thì 10 giờ chúng ta bèn phải có mặt, tuyệt đối chớ có để người ta đợi,
chúng ta phải trọng hứa giữ tín.
Nghe nói có một vị càn đạo nọ, anh ta
mang 10 vạn đến Thâm Quyến đi tiếp nhận một vụ làm ăn “ lát gạch ”. Sau khi anh
ta đã kí kết hợp đồng xong rồi, ông chủ bên đối tác của thành phố Sán Đầu xem
thấy hợp đồng này không những không kiếm được tiền, vả lại còn phải chịu thiệt.
Do đó ông chủ này bèn giao trách nhiệm cho vị giám đốc công trình của ông ấy nhất
định phải thật tốt mà giám sát vị càn đạo này, bởi vì cậu ta tiếp nhận công
trình này là thiệt thòi đấy, anh ta có thể sẽ gian lận trong khâu vật liệu. Sau
đó khi công trình này đã hoàn thành và chẳng có phát hiện bất cứ việc gian lận
gì trong khâu vật liệu, ông chủ này bèn nói với vị càn đạo ấy rằng : “ anh tiếp
nhận công trình này có kiếm được tiền lời không ? ”. Vị càn đạo này trả lời rằng
“ không có ! ”. Ông chủ lại bèn hỏi tiếp rằng “ anh làm xong công trình này rồi
mới biết là kiếm không được tiền hay là sau khi đã kí hợp đồng rồi mới biết là
kiếm không được tiền vậy ? ”. Vị càn đạo này bèn trả lời rằng “ kí hợp đồng
xong rồi tôi đã biết là kiếm không được tiền đâu ”. Ông chủ bèn cảm thấy rất kì
lạ, rằng “ anh nếu như đã sớm biết là kiếm không được tiền, cớ sao anh vẫn làm
tốt công trình này vậy ? ”. Vị càn đạo này đáp rằng “ bởi vì tôi đã kí kết hợp
đồng, vậy nên nhất định phải trọng hứa giữ tín, phải làm tốt công trình này. ”
Ông chủ bèn hỏi anh ấy rằng : “ anh đã thiệt mất bao nhiêu tiền ? ” “ Giá thành
của tôi cần 10 vạn, thảy đều phải chịu thiệt. ” Ông chủ bèn nói với anh ta rằng
: “ tối nay tôi mời anh đi dùng cơm. ” Tối hôm ấy ông chủ này đã hẹn tất cả các
vị chủ quản của các công ty phân nhánh khác cùng đến dùng bữa, và nói với họ rằng
: “ sau này tất cả các công trình lát gạch của chúng ta toàn bộ thảy đều giao
cho anh này làm, chớ có tìm những công ty khác. ” Do vị càn đạo này có sự thành
tín, trọng hứa giữ tín, có đức tín, do đó sự nghiệp của anh ta bèn dần dần hưng
vượng phát đạt, bây giờ vẫn còn phát triển rất tốt. Thế nên làm ăn thì chúng ta
phải kiên trì giữ tín, trọng hứa giữ tín. Khi sự tín dụng này càng lúc càng
kiên cố vững chắc thì sự nghiệp bèn nhất định có thể thành công. Thế nhưng con
người ta thường vẫn cứ hay nóng vội mưu cầu lợi, hy vọng có thể sớm ngày kiếm
nhiều tiền. Do bởi bị dục vọng này chế ngự nên thường sẽ làm ra những chuyện phạm
pháp. Vậy nên có rất nhiều kết cục của các xí nghiệp đều là phải chịu nỗi khổ của
lao ngục chính là do bởi đã đánh mất đi chữ tín. Thế nên chúng ta hễ hành chánh
đạo thì chúng ta phải có lòng tin đối với đạo đức, tuân theo những lời dạy bảo
của các bậc Thánh Hiền mà đi làm người, trọng hứa giữ tín, có đức tín thì cái
phước sau này tự nhiên sẽ vô cùng tận.
Phải gầy dựng đức tín, ngoài việc giữ
lời hứa đối với người khác và xử sự có thành tín ra, tu đạo càng phải bồi dưỡng
có lòng tin đối với đạo đối với Tiên Phật. Nếu như chúng ta chẳng có lòng tin đối
với Đạo, “ Thiên Đạo phải chăng có thể siêu sanh liễu tử ? ”, thì cho dẫu là có
sự chứng thực của mùa đông xác không cứng, mùa hè xác chẳng thối đi chăng nữa,
họ cũng đều sẽ không tin. Tiên Phật liệu có thật sự là có hay không ? Trước giờ
đã có rất nhiều những sự tích linh nghiệm như thế phát sinh, họ vẫn cứ không
tin ! Nhân quả có thật sự có hay không ? Chân lý có thật sự có hay không ? Vẫn
cứ nghi ngờ này nọ đối với việc tu đạo ! Nếu như chúng ta không phát trừ loại
tâm thái này, thì tu đạo nhất định không thể nào tiến bộ, bởi vì chúng ta tu đạo
kiểu này nhất định sẽ không thể nào tham dự sâu vào, không chịu hy sinh phụng
hiến vì đạo trường.
Đức Phật Thích Ca nói rằng : “ lòng
tin là bước đầu vào đạo, là mẹ của tất cả mọi công đức, trưởng dưỡng tất cả mọi
căn lành ”. Chúng ta tu đạo không tin Phật, thì chúng ta sẽ không dựa nhờ vào Tổ
Sư, Sư Tôn, Sư Mẫu thương xót chúng ta, cứu giúp chúng ta. Chúng ta không tin
nhân quả thì chúng ta sẽ không hành thiện bồi đức, sửa đổi bản thân, trở về làm
lại một con người tốt. Vậy nên tin tưởng vào Tiên Phật, tin sâu vào nhân quả là
lí niệm tu đạo mà người tu đạo nhất định phải xác lập. Vậy thì niềm tin tu đạo
đúng đắn lại xác lập như thế nào đây ? Chúng ta ở đạo trường nên làm như thế
nào đây ? Trước tiên, chính là phải dứt nghi sanh tín.
1.”Dứt nghi sanh tín” : Lòng tin là mẹ
của mọi công đức. Chư Phật Bồ Tát từ lúc ban đầu tu đạo cho đến lúc chứng đạo đều
là bắt tay vào từ một chữ tín. Sư Tôn từ bi nói rằng : “ Thầy muốn tặng các con
hai chữ, hai chữ này chính là dứt nghi, những mối nghi hoặc trong lòng của các
con đã dứt rồi thì mới có thể sinh ra lòng tin; nếu như không dứt nghi thì sao
lại có lòng tin đây ? ”
Nghe nói có một vị Điểm Truyền sư lúc
ông ấy còn trẻ tuổi đã phát tâm muốn khai hoang bàn đạo. Có một lần, ông ấy đi
ra ngoài bàn đạo xong, trên đường về nhà thì gặp phải tai nạn khiến cho một cái
chân của ông đã bị đụng gãy xương. Vị Điểm Truyền Sư này chẳng những không có
oán trời trách người, mà còn rất cảm tạ Thiên Ân Sư Đức từ bi gia bị phù hộ khiến
cho ông ấy đã thoát chết, đã qua được một kiếp nạn lớn không chết đi, và rồi cuối
cùng chân của ông ấy đã hoàn toàn hồi phục. Còn vợ của ông ấy vốn dĩ là rất
phát tâm đi tu đạo, thế nhưng do bởi vụ tai nạn giao thông lần này của chồng cô
ấy đã khiến cho cô ấy không chịu trở về đạo trường phật đường tu đạo nữa. Tuy rằng
cô ấy đã trải qua sự dẫn dắt chỉ dạy nhiều mặt, thế nhưng khi đối mặt với hiện
thực thì cô ấy vẫn cứ là trách ơn trên cớ sao không từ bi, khiến cho chồng cô ấy
có vụ tai nạn giao thông lần này. Gặp đúng có lần mở lớp nọ, Thầy Tế Công Hoạt
Phật lâm đàn từ bi khai thị cho cô ấy : “ con có biết vì sao mà chồng của con
thành tâm bàn đạo như vậy cũng vẫn gặp tai nạn giao thông hay không ? ”. Vị
khôn đạo này trả lời rằng không biết. Thầy lại từ bi khai thị rằng : “ Khi ông
ngoại của con qua đời, bà ngoại của con có phải đã 30 tuổi ? Khi cha của con
qua đời, mẹ của con có phải cũng đã tuổi 30 ? Con năm nay có phải cũng đã tuổi
30 rồi không ? , “đúng thế”, “ vậy năm nay đến lượt con thủ quả (ở goá ) rồi !
”. Hoạt Phật Lão Sư liên tục nói không ngớt lời nhân quả trong đó rằng : thì ra
cô và mẹ, bà ngoại cô 3 người kiếp trước đã liên thủ giết hại một người đàn
ông, mà cô vợ của người đàn ông này năm đó đúng vào tuổi 30, ở góa đến mức vô
cùng gian khổ, suốt ngày nước mắt rửa mặt, cuối cùng kìm nén không nổi nữa mà tự
sát thân vong. Từ đấy vợ chồng hai người oán khí xông thiên, âm hồn chẳng tán,
quyết tâm muốn phục thù, muốn 3 người họ đều nếm phải mùi vị ở góa vào tuổi 30,
do đó mà báo ứng một đời một đời phát sanh, từ bà ngoại của cô đến mẹ của cô đều
là 30 tuổi ở góa, thê thảm khổ cả đời.
Vào lúc này, vị khôn đạo đã tỉnh ngộ.
Tiên Phật lại từ bi nói rằng : “ con thà rằng ở goá, hay là cùng chồng con
thành tâm về phật đường tu đạo, bàn đạo, hành công liễu nghiệt, lấy công chuộc
tội, có câu nói là có công có thể đỡ tội lỗi ngàn năm, có đức có thể tiêu oán của
luỹ kiếp. Vốn dĩ chồng con trong vụ tai nạn xe lần này định sẵn là sẽ phải chết,
đều là do Thiên Ân Sư Đức từ bi gia bị nên mới gãy chân thay đầu, như thế con
có vừa lòng không ? ”
Vị khôn đạo này sau khi nghe xong lời
từ bi khai thị của Thầy thì cảm động và vô cùng hổ thẹn khóc nức nở, những nghi
hoặc đối với đạo trước kia đều đã quét sạch hết, tức khắc khấu đầu tạ ân, sau
đó bèn rất phát tâm tu đạo. Do đó điều kiện thứ nhất để học đạo chính là có
nghi thì nhất định phải hỏi. Sách Trung Dung cũng có nói : “Bác học chi, thẩm vấn
chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi” nghĩa là học cho rộng, xét hỏi
sâu xa, suy tư thận trọng, biện luận sáng tỏ, chuyên nhất thi hành. ”
Bác học chi, nghĩa là chúng ta học đạo,
tức là học lý, chúng ta cần phải học tập một cách rộng rãi, học rộng nghe nhiều.
Chẳng hạn như quay về phật đường lắng nghe đạo, có những chỗ không hiểu thì phải
khiêm tốn mà thỉnh giáo người khác. Phận là tiền bối hoặc là Sư Huynh, Sư tỉ chớ
có khăng khăng bảo thủ, chẳng cầu tiến bộ, chớ có tự mãn, mà phải dùng một cái
tinh thần khiêm tốn để quay về học đạo, xem nhiều các kinh điển và tứ thư ngũ
kinh của Thánh Nhân Tam Giáo. Có thời gian thì có thể nghe băng đĩa về đạo. Khi
chúng ta ngồi xe hoặc đi bộ thì có thể đọc tụng kinh thầm, đi học tập từ nhiều
phương diện để trau dồi làm phong phú bản thân, bởi vì tu đạo giống như thuyền
đi ngược dòng, chẳng tiến thì lui. Ngoài việc học rộng ra, kế đến còn phải xét
hỏi sâu xa.
Thẩm vấn chi, nghĩa là chúng ta học đạo
có chỗ không hiểu rõ đối với chân lý, có nghi thì phải hỏi. Thỉnh giáo nhiều
nơi các Tiền Bối và các sư huynh sư tỉ của Phật đường.
Nghe nói trước kia có một vị càn đạo,
vừa mới cầu đạo chưa được bao lâu thì có một lần nọ quay về Phật đường, trong
phòng dành cho càn đạo đột nhiên nhìn thấy một hộp chứa rượu. Anh ta tưởng rằng
bên trong là rượu, bèn thế là có chỗ hoài nghi đối với đạo trường. Phật đường
hay khuyên người ta giới rượu, cớ sao lại có hộp rượu ở đây ? Điều này khiến
cho vị càn đạo ấy rất hoài nghi ! Rốt cuộc là cái đạo này là thật hay giả đây ?
Cũng may là vị càn đạo này đều rất có trí tuệ, biết đi hỏi, hỏi ra mới biết bên
trong không phải là rượu, mà là để rất nhiều cây bút bi đựng ở trong ấy. Vị càn
đạo này nghĩ may là có hỏi rõ ràng, nếu không thì có thể do bởi thế mà không về
phật đường nữa ! Thế nên Ân Sư từ bi nói rằng : có nghi thì nhất định cần phải
hỏi cho rõ. Đạo chính là chân lý, nếu như chẳng thể hiểu rõ chân lý, thì lại
làm sao mà đi tu đạo đây ? Do đó Sư Tôn từ bi nói rằng “ Chẳng rõ lý, sao tu đạo
? ”. Vậy nên nếu như chúng ta có chỗ nghi vấn, thì phải thỉnh giáo nhiều nơi
các tiền bối hoặc các sư huynh, sư tỉ, có câu là khi hỏi được sâu thì ngộ được
chân. Sau khi hỏi rồi, thì kế đến chúng ta phải suy tư thận trọng.
Thận tư chi, nghĩa là chúng ta phải
suy ngẫm một cách thận trọng, chẳng hạn như chúng ta suy ngẫm đạo nghĩa, học đạo
lý, có chỗ không hiểu thì phải đi thỉnh giáo, thỉnh giáo xong rồi thì chúng ta
phải đi suy ngẫm sâu sắc, gọi là tham ngộ. Sau khi tham ngộ tỉ mỉ sâu sắc rồi
thì đắc được đáp án, kế đến chúng ta phải biện luận sáng tỏ.
Minh biện chi, nghĩa là sau khi chúng
ta hiểu rõ rồi, thì có thể phân biện thị phi đúng sai, trắng đen, tà chánh, rồi
lại còn phải đi thực hành một cách thiết thực, kế đến chúng ta phải dốc lòng
kiên trì chuyên nhất thi hành.
Đốc hành chi, nghĩa là phải “ tri hành
hợp nhất ” ( biết và làm phải hợp thành một ) , phải nỗ lực thực hành, đích
thân thể nghiệm một cách thiết thực. Chúng ta sau khi trải qua sự học rộng, xét
hỏi sâu xa, suy tư thận trọng, phân biện sáng tỏ, thì kế đến là đi dốc lòng
kiên trì chuyên nhất thi hành. Chúng ta hiểu rõ sự quý báu của đạo rồi thì phải
đi hành trì ra bên ngoài. Thật đáng tiếc là người thời nay phần lớn cho rằng việc
hướng người khác thỉnh giáo là một việc đáng hổ thẹn, do đó đều không chịu đi
thỉnh giáo người khác, do vậy mà nghi vấn chỉ có càng lúc càng nhiều, sự mê hoặc
cũng càng lúc càng sâu. Hễ một khi mê mà chẳng biết tỉnh ngộ thì tự nhiên lìa đạo
càng xa, vậy nên chúng ta có nghi thì nhất định phải hỏi. Sau khi hỏi rồi, đã
giải mở những khối nghi lớn trong lòng chúng ta thì có thể sanh lòng tin.
Hậu học còn nhớ lúc vừa mới cầu đạo,
nghe nói có tam bảo, chỉ cần chúng ta cầu đạo rồi, ăn chay tu đạo, không làm việc
ác, nguyện làm các điều lành thì sau này trăm tuổi về già bèn có thể trở về Lí
Thiên, có sự chứng minh của thân xác mùa đông không cứng, mùa hè không thối.
Lúc ấy trong lòng hậu học có sự hoài nghi, không biết có phải là thật hay không
? Trong lòng hậu học nghĩ, có dễ dàng như thế không ? Hậu học cầu đạo chưa được
bao lâu thì có một bà cụ quy không. Hậu học bèn đi tế bái cụ ấy, bèn nhân tiện
đi ấn chứng xem thân thể của bà cụ có phải là mềm hay không, mềm thì đại biểu
là có thể trở về Lí Thiên. Hậu học di động cánh tay của bà, quả nhiên thật sự
là mềm ! Cứ như thế, hậu học cũng đã đích thân ấn chứng vài vị đạo thân sau khi
qua đời rồi thì thân thể đều mềm mại. Mẹ của hậu học qua đời đã 3 năm. Lúc mẹ của
hậu học qua đời thì hậu học cũng đã ấn chứng qua. Còn nhớ là mẹ đã được đông lạnh
hai tuần ở phòng đông lạnh xác. Khi hậu học đi lãnh nhận thi thể thì lúc nhân
viên y tế kéo thi thể của bà ra, hậu học lập tức rờ xem cánh tay của mẹ quả thật
là mềm mại. Cái đạo này thật là rất quý báu, cho nên chúng ta đối với đạo phải
dứt nghi sanh tín. Nếu như chúng ta đối với đạo trường có sự hoài nghi thì nhất
định phải hỏi rõ, khi hỏi sâu thì ngộ được chân. Nếu như đối với nhân quả mà có
chỗ hoài nghi thì chúng ta có thể xem nhiều những sách chuyện về nhân quả. Quan
sát mọi thứ của thế gian mà xem, có phải là đều thoát không ra khỏi định luật
nhân quả của thiện ác không ? Nếu phải thì càng phải tăng thêm niềm tin hướng
thiện vì đạo của chúng ta. Sau khi có niềm tin đối với đạo rồi, lại làm thế nào
để có thể nuôi lớn căn lành của chúng ta, bồi dưỡng cái đức có lòng tin của
chúng ta đối với đạo đây ? Chính là phải làm được việc lập nguyện liễu nguyện.
2. Lập nguyện liễu nguyện : nguyện
chính là cái tâm ban đầu, không chỉ có những cái mà mình đã lập ở phật đường mới
gọi là nguyện, mà chúng ta có cái tâm nguyện này, mang cái tâm từ bi đi học đại
đạo vô thượng, chánh pháp vô thượng, chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác,
ngôn hành hợp nhất, chính là nguyện. Biết mà không hành thì uổng phí biết, do vậy
phải biết phải hành, cái bên trong thể hiện ra bên ngoài, có thể chí thành chẳng
ngưng, thì mới có thể giúp vào việc hoá dục của trời đất, thì có thể hiểu rõ,
thông thấu suốt mọi nguyên cớ trong thiên hạ, triệt ngộ chỉ là sự nội chứng của
tự tâm, chẳng phải là đắc được ở trên thân người khác. Nếu như cái tâm của
chúng ta hướng ngoài đi tìm cầu, thì muốn đắc được vô thượng chánh đẳng chánh
giác là điều không thể nào đâu, cũng giống như đi tìm sừng trên mình con thỏ vậy,
tìm lông trên mai rùa vậy. Nếu như chúng ta chẳng có chiếu theo nguyện hành, vô
số những tội nghiệt mà chúng ta đã tạo trong suốt sáu vạn năm lại làm sao có thể
tiêu sạch ? Vậy nên lập nguyện rồi nhất định phải liễu nguyện. Trong lời điểm đạo
cũng có nói : “nếu nguyện chẳng thể liễu, khó mà về cố hương”. Điểm Truyền Sư
trước khi điểm cửa chính của chúng ta, bảo chúng ta phát nguyện, chính là bảo
chúng ta phát cái tâm ban đầu, lương tri lương năng, cho nên mới có mười điều đại
nguyện. Lập nguyện không phải là lời thề độc, cũng chẳng phải là vì Điểm Truyền
Sư hay vì Dẫn Sư mà phát, mà là vì bản thân mà phát nguyện. Chúng ta có nguyện
lớn thì mới có sức mạnh. Lúc chúng ta cầu đạo, chúng ta đã lập mười điều đại
nguyện ở trước Phật. Có người thì lập nguyện thanh khẩu, nguyện đàn chủ, giảng
sư, bàn sự nhân viên, thanh tu, khai hoang xiển đạo, xả thân bàn đạo … khi ở
các lớp khác. Nếu như chúng ta đã lập nguyện ở trước Phật rồi, thì chúng ta phải
giữ chữ tín, tuyệt đối chớ có thất tín, đối với Tiên Phật chớ có mất đi chữ
tín. Chúng ta giữ tín, lập nguyện, liễu nguyện, đấy chính là đức tín. Chúng ta
phải đi thực tiễn cái đức tín. Lập nguyện chẳng phải là qua loa lập nguyện cho
xong rồi thì xong đâu, mà là chúng ta lập nguyện rồi nhất định phải liễu nguyện.
Tại Vân Nam có một người tên là Lí Bộ
Vân, anh ta sống ở Quảng Châu, hoàn cảnh trong nhà cũng không phải là tốt lắm.
Sau đó thông qua sự giới thiệu của bạn bè thì đã cầu đạo, thế nhưng rất ít quay
về phật đường. Không bao lâu sau thì anh ta sinh bệnh, lại còn nhập viện. Do bởi
bệnh tình càng lúc càng nghiêm trọng, bác sĩ cũng chẳng còn cách nào khác, sau
đó lại còn nghiêm trọng đến mức thần trí chẳng rõ, bác sĩ cũng tưởng rằng anh
ta đã chết rồi, bèn đem anh ta cho vào phòng liệm xác. Thế nhưng vào lúc ấy,
tuy rằng Lí Bộ Vân chẳng thể mở mắt nổi, nhưng trong lòng vẫn còn có tri giác,
trong lòng nghĩ rằng “ mình đã bệnh nghiêm trọng đến mức này rồi, chắc chắn nhất
định sẽ chết. ” Thế là trong lòng anh ta bèn cầu xin Hoàng Mẫu từ bi khai ân, rằng
nếu như lần này mà con có thể không chết thì đợi sau khi con khỏi bệnh rồi nhất
định sẽ lập nguyện thanh khẩu như tố, xả thân bàn đạo, hành công liễu nghiệt.
Sau khi anh ta cầu khai ân không bao lâu sau, điều rất kì lạ là anh ta đã đột
nhiên thần trí tỉnh táo, thế là bác sĩ bèn đưa anh ta trở vào phòng bệnh. Trải
qua hai, ba ngày trị liệu dưỡng bệnh thì anh ta quả nhiên đã khỏi bệnh và có thể
xuất viện. Về đến nhà rồi thì việc đầu tiên của anh ta chính là muốn lập tức về
phật đường, khẩn cầu Tiền Bối cho anh ta sám hối tại phật đường, và lập nguyện
thanh khẩu trường chay, xả thân bàn đạo, từ nay trở đi sẽ về phật đường nhiều,
có thể nghe đạo rõ lý, thế là không cần đến mười ngày mà bệnh của anh ta quả
nhiên đã hoàn toàn khỏi. Chân đạo thì tất có chân khảo, khảo chính là khảo nghiệm,
khảo xem cái tâm của chúng ta có phải là thật lòng, có thể giữ nguyện giữ tín
hay không. Cái khảo thứ nhất chính là vợ của anh ấy. Cô ấy rất phản đối việc
anh ta ăn chay, bảo rằng ăn chay chẳng đủ dinh dưỡng, mỗi ngày đều tranh cãi với
anh ấy, nhất định muốn anh ta khai trai phá giới, lại còn đem canh gà, canh bò
cho anh ta uống, anh ta không chịu uống, vợ anh ta bèn bỏ mặc anh ta, và khoá cửa
nhà bếp lại không cho anh ta ăn cơm, bức ép anh ta rất khổ sở. Anh ta quay trở
về Phật đường tâm sự với đạo thân, bảo rằng vợ anh ta bức ép anh ta khai trai
phá giới. Vị đạo thân này bèn an ủi anh ta, bảo anh ta về phật đường dùng bữa.
Tự bản thân anh ta bèn nói “ bất luận là vợ tôi bức ép tôi thế nào đi chăng nữa,
tôi đều nhất định sẽ không khai trai phá giới. Cho dù là có bức chết tôi thì
tôi cũng thà ăn chay mà chết, cũng không chịu vì khai trai mà sống. ” Sau đó
cách bốn, năm ngày sau thì thân thích của Lí Bộ Vân đến gặp ngài Chung Nam Lão
Hủ, thỉnh cầu ngài Chung Nam Lão Hủ cho Lí Bộ Vân ở trước Phật dâng trình biểu
văn khai trai. Ngài Chung Nam Lão Hủ bèn nói : “ Tôi chỉ là thành toàn điều thiện
của người, chớ không thành toàn tội lỗi của người. Nếu như ông mời tôi chủ trì
việc lập nguyện ăn chay thì được, còn nếu như ông muốn tôi dâng sớ giúp ông việc
khai trai phá giới trái ngược với đạo thì là tôi sẽ không làm đâu.” Lại cách bốn,
năm ngày sau cũng không thấy Lí Bộ Vân quay về phật đường. Sau đó hỏi ra mới biết
thì ra là anh ta đã bị người nhà thuyết phục khai trai phá giới rồi. Từ sau khi
Lí Bộ Vân khai trai phá giới, chưa đến mười hôm thì bệnh cũ tái phát trở lại và
đã nhập viện, ba ngày sau đó thì đã qua đời.
Việc này quả thật là rất đáng tiếc ! Vậy
nên chúng ta lập nguyện rồi thì phải liễu nguyện, phải giữ lấy đức tín. Người
xưa nói “ Quân tử nhất ngôn cửu đỉnh ”, ý là lời nói hết sức có trọng lượng, một
lời hứa của quân tử đáng giá nghìn vàng. Phải xem trọng lời hứa của bản thân, một
lời hứa đáng nghìn vàng, tức là một lời hứa còn quý trọng hơn so với nghìn
vàng. Các bậc quân tử xưa kia, những người tu hành xưa kia hễ đã hứa qua chuyện
gì rồi, hoặc đã phát ra điều nguyện gì rồi thì họ mãi đến chết cũng không thay
đổi, thà rằng giữ nguyện mà chết chớ không chịu vì phá giới mà sống. Cho dẫu là
chịu phải sự khảo nghiệm thì chúng ta cũng đều phải giữ tín, kiên trì mãi đến
cùng.
Lại nghe nói có một vị khôn đạo, cô ấy
rất có lòng thành kính đối với đạo, rất đáng tin, cho dù là chịu phải sự khảo của
người nhà cũng đều sẽ không đánh mất đi lòng tin đối với đạo. Có một lần nọ, cô
ấy về phật đường lúc tan ca làm việc. Về đến nhà thì ngờ đâu chồng cô ấy đã
khoá cửa, không cho cô ấy về nhà, vả lại còn nói rất nhiều những lời nói rất
khó nghe, “ cô mà còn về phật đường nữa thì tôi sẽ không cho cô ăn cơm, không
cho cô về nhà ”, khi ấy đã khiến cho vị khôn đạo này rất khổ sở; tuy rằng là vậy,
nhưng cô ấy vẫn không vì sự phản đối của chồng mà không quay về phật đường, bởi
vì cô ấy vô cùng có lòng tin đối với đạo, huống hồ cô ấy đã lập nguyện phải liễu
nguyện, sao có thể vì sự phản đối của chồng cô ấy về việc cô ấy quay về phật đường
mà đánh mất chữ tín với Tiên Phật được ! Huống hồ là chồng cô ấy thật ra đều là
xuất phát từ sự quan tâm đến mình, yêu thương mình, bởi vì chồng cô ấy sợ cô ấy
bị người ta lừa gạt, cho nên mới lo lắng như thế. Vì vậy nên cô ấy trái lại còn
thêm nỗ lực tu tốt bản thân, tuy rằng là vất vả khổ cực cũng đều phải làm được
đến thánh phàm kiêm tu, giúp chồng nuôi dạy con, tận trách nhiệm của vợ hiền mẹ
tốt. Sau đó thì chồng cô ấy cũng cảm thấy là sau khi cô ấy về phật đường thì
càng lúc càng hiển ra cái hiền đức của người vợ, do vậy mà không còn phản đối
việc cô ấy về phật đường nữa; vị khôn đạo này lại có thể liễu nguyện của mình,
giữ được đức tín của mình.
Chúng ta đã lập nguyện rồi thì phải liễu
nguyện, phải giữ đức tín, phải có thể chiếu theo nguyện của mình mà đi thực
hành, chí kiên định chẳng đổi dời, noi theo ngài Nam Hải Cổ Phật không độ tận
chúng sanh trong thiên hạ thì thề không thành Phật. Chúng ta phải noi theo ngài
Địa Tạng Cổ Phật, địa ngục không trống thề không thành Phật. Chúng ta phải có
thứ tinh thần và nghị lực liễu nguyện này, chẳng sợ gian khổ và sự mài giũa khảo
nghiệm cũng vẫn có thể y theo nguyện tuỳ duyên mà hành. Kiếp này nếu nguyện chẳng
thể liễu thì đều nguyện đời đời kiếp kiếp đảo trang giáng thế hạ phàm, trợ đạo
cứu độ chúng sanh. Cái mà ơn trên cần chính là cần sự thật lòng lập nguyện liễu
nguyện như thế nào của mỗi người chúng ta. Chỉ cần chúng ta tận tâm sức mà đi
làm, ơn trên sẽ giám sát được đấy. Vậy nên chúng ta tu đạo thì phải noi theo
tinh thần cứu thế của Tiên Phật, lập nguyện liễu nguyện thì có thể thành tựu đức
tin.
Tín thống lãnh tứ đoan chính là nhân,
lễ, nghĩa, trí, còn tín thì ở ngay chính giữ. Chỉ cần chúng ta có thể có đức
tín, thì muôn thiện bèn có thể lập được tốt. Con người nếu như chẳng có đức
tín, thì sẽ đánh mất đạo căn, vậy nên đối với đức tín thì chúng ta một khắc
cũng đều không được rời khỏi. Chỉ cần chúng ta có thể giữ tín, có sự đáng tin cậy,
ngôn hành hợp nhất, thì sẽ được người ta tín nhiệm, vả lại còn lương tâm an
vui. Chúng ta có thể về Phật đường học đạo, Sư Tôn nói “ chẳng rõ lí, sao tu đạo
? ”, có nghi thì phải hỏi, hiểu rõ chân lý rồi thì sẽ dứt nghi sanh tín, kế đến
đi lập nguyện liễu nguyện, giữ đức tín, thì tương lai bèn có thể tu đạo tất
thành.
Tín thống tứ đoan lập muôn thiện
Người chẳng đức tín mất đạo căn
Cái gốc xử thế toàn dựa tín
Chữ tín chẳng thể rời lát giây.
Hình icon Show icon