“ Vũ
” là từ chỉ “ không gian của bốn phương trên dưới ”, “ trụ ” là từ chỉ “ thời
gian vô hạn từ xưa đến nay ”, do đó vũ trụ là chỉ không gian và thời gian của
toàn thiên thể. Như cái địa cầu này mà chúng ta đang sống gọi là ngũ trược ác
thế. Hệ thái dương có 8 hành tinh lớn (địa cầu là một trong đó), có hơn 5000 –
6000 thậm chí gần vạn cái hành tinh nhỏ, và vô số các vệ tinh hay các tiểu hành
tinh xung quanh, hợp thành một hệ mặt trời.
Một
thái dương hệ gọi là một tiểu thế giới, hợp một nghìn tiểu thế giới gọi là tiểu
thiên thế giới, hợp một nghìn cái tiểu thiên thế giới tạo thành một trung thiên
thế giới, hợp một nghìn trung thiên thế giới tạo thành một đại thiên thế giới,
hợp tam đại thiên thế giới thì gọi là cõi Sa Bà ( Không được quan niệm thế giới
Sa Bà chỉ là địa cầu, nơi con người ở. Địa cầu chỉ là một nơi rất nhỏ bé trong
thế giới Sa Bà. Thế giới Sa Bà là cả một đại thiên thế giới mà đơn vị cơ sở là
một thái dương hệ, trong đó Trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ. )
Cõi
Sa Bà bao gồm tam thiên Lí, Khí, Tượng.
Tượng
Thiên hữu hình hữu tướng có thể thăm dò suy đoán; Khí Thiên vô hình vô tướng,
nhìn không thấy, nghe không thấy, ngửi không thấy, khó mà thăm dò suy đoán; thế
giới Lí Thiên là vũ trụ chân không diệu hữu sinh thành Khí Thiên, Tượng Thiên.
Khí
Thiên vốn là do hai khí âm dương giao trộn lẫn nhau mà thành, là tổ hợp vi diệu
chồng chéo lên nhau, như nước và ánh sáng, không khí và mùi vị có thể cùng tồn
tại ở một không gian. Bên ngoài cõi Khí Thiên và Tượng Thiên còn có cõi tịnh độ
Phật Lí Thiên; tích vô số Khí Thiên, Tượng Thiên thế giới Sa Bà và các cõi tịnh
độ Phật Lí Thiên lại thì gọi là “ vũ trụ ”
Đạo
học đem vũ trụ chia làm hai phần để giải thích :
1. Khí Thế Gian ( là chỉ thể tích trong vũ trụ
và không gian bao vây nó )
2. Hữu Tình Thế Gian ( là chỉ những sinh vật hữu
tình cư trú sinh sống tại Khí Thế Gian. )
Cấu
tạo của Khí Thiên chia làm bốn bộ phận : Thiên Giới, Hạ giới, cõi A Tu La và
cõi U Minh.
Thiên
giới còn gọi là Thượng Giới, ở trong không gian ngoài khí quyển, là nơi Thần Tiên
ở. Hạ giới là nơi quỷ thần ở lẫn với nhau, nằm ở bên trong tầng khí quyển của
hành tinh có loài người ở. Cõi A Tu La là nơi mà Thần A Tu La ở, giới này khá
là không tập trung – Thiên Giới và Hạ Giới đều có thể có các bộ chúng của A Tu
La. Cõi U Minh là nơi mà các quỷ hồn ở, nằm ở bên trong hành tinh mà loài người
sinh sống.
Khí
Thiên ( còn gọi là Thái Cực Khí Thiên ) , là do Vô Cực Lí Thiên hoá dục mà ra,
là quốc độ của rất nhiều thần tiên cư trú. Khí Thiên phụ trách sự thay đổi biến
hoá vận hành của Tượng Thiên, trên có thể vận hành mặt trời, mặt trăng, các vì
sao; dưới có thể quán thông sơn hà đại địa, giữa có thể sinh trưởng dưỡng dục
sinh linh vạn vật bao gồm cả nhân loại trong đó.
Khí
Thiên, khí thể giữa vũ trụ, thông thường còn gọi là trời. Bởi vì khí thể thì nhẹ
và trong sạch, đất thì nặng và ô trược. Nhẹ và trong sạch thuộc dương, nặng và
ô trược thuộc âm, âm dương đối đãi tức gọi là càn khôn. Càn là trời, Khôn là đất.
Chúng ta thường nói “ trời đất vạn vật ”, cái trời này chính là “ Khí Thiên ”.
Nếu như chẳng có cái trời này, thì đất bèn chẳng thể nào nâng đỡ, con người và
vạn vật chẳng thể sinh trưởng, mặt trời, mặt trăng và các vì sao chẳng thể treo
lơ lửng, và tất cả mọi thứ có hình sắc đều chẳng thể tồn tại. Vậy nên công dụng
của nó chính là thúc đẩy sự tuần hoàn, thăng ( dương sanh – dương khí thăng lên
) giáng ( âm sanh – âm khí giáng sanh ), âm thầm vận chuyển sự thay đổi của bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông, vạn vật đầu cuối. Đạo Đức Kinh rằng : “ người noi theo
đất, đất noi theo trời, trời noi theo đạo, đạo pháp tự nhiên. ”
Khí
Thiên là có âm dương, có sự thay đổi biến hoá, thì vẫn còn có sự sanh tử, nếu
đã có sanh tử thì có sự khởi đầu kết thúc. Vật có gốc có ngọn, việc có đầu có
cuối. Trời đất, mặt trời, mặt trăng, quỷ thần, người vật, các động thực vật bay
trên trời, lặn dưới nước, có cái nào chẳng phải là vật, đều có gốc ngọn; bốn
mùa tuần hoàn, lạnh đến nóng đi, sự tròn khuyết của trăng, sự mọc lặn của mặt
trời, có cái nào chẳng phải là sự ? đều có sự kết thúc và bắt đầu.
Khí
Thiên lưu hành chẳng ngưng, vô hình hữu tích ( chẳng có hình dáng nhưng có vết
tích ), lưu hành thăng giáng, là cõi trời biến mà hữu thường, treo lở lửng mặt
trời, trăng, sao, âm thầm vận chuyển bốn mùa. Ngọc Hoàng Đại Đế là vị chúa của
cõi Khí Thiên. Cõi trời này 129600 năm là một sự kết thúc và bắt đầu, do Quan
Pháp Luật Chủ đương nhiệm, các linh cư ngụ nơi đây là những người đời hành thiện
tích đức.
Vật:
gốc → ngọn → gốc → …
Việc:
Kết thúc → bắt đầu →kết thúc → … cứ tuần hoàn lặp lại.
Sự kết
thúc và bắt đầu của Khí Thiên là 129600 năm, định làm 12 hội ( lấy Tí, Sửu, Dần,
Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi làm tên ).
Sáu
hội khai mở vạn vật, sáu hội thu bế vạn vật; từ hội Tí đến hội Ngọ là từ chẳng
có mà đến có; từ hội Ngọ đến hội Tí, là từ có mà trở về đến không. Trời khai mở
vào hội Tí, mất vào hội Tuất, Đất khai khẩn vào hội Sửu, mất vào hội Dậu. Con
người sanh vào hội Dần, chết hết vào hội Thân; hội Hợi hỗn độn, hội Tí lại sanh
Thiên, cứ như thế tuần hoàn không thôi. Khí Thiên có sự kết thúc bắt đầu, thì
Tượng Thiên đương nhiên cũng không cần phải nói.
Lí
Thiên, còn gọi là Vô Cực Lí Thiên, vô hình vô tướng, là nguồn cội của thiên địa
vạn vật tạo hoá, là cố hương của linh hồn nhân loại, là cảnh giới vĩnh hằng bất
diệt, là quốc độ của Vô Sanh Lão Mẫu ( còn gọi là Minh Minh Thượng Đế ) và nơi
mà Thánh Nhân Tam Giáo đã đắc đạo, thành đạo cư trú.
Lí
Thiên là vũ trụ nguyên thỉ sinh thành Khí Thiên và Tượng Thiên, vô hình vô sắc,
chân không diệu hữu, có thể phân làm hai tầng Quyền Lí Thiên và Chân Lí Thiên.
Thế
gian hữu tình của vũ trụ lại chia làm hai phần :
1. Cõi Phàm
2. Cõi Thánh
Cõi
phàm lại phân làm : Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới.
Cõi
Thánh phân làm : A La Hán độ, Phích
Chi Phật độ, Bồ Tát độ, và Thập Phương Nhất Thiết Chư Phật Tịnh Độ, là cảnh giới
của Đại La Kim Tiên, Đại Thành Chí Thánh, Đại Giác Như Lai.
Nhân
loại là sinh vật hữu tình sống ở cõi Dục giới trong cõi Phàm, tức là địa cầu. Địa
cầu có loài người, địa ngục đạo, quỷ đạo, súc sinh đạo … cư trú.
Địa
Cầu thuộc về cõi Tượng Thiên. Tượng Thiên còn gọi là Hoàng Cực Tượng Thiên, là
do Thái Cực Khí Thiên hoá dục mà ra, là quốc độ mà loài người sinh sống và có
thể nhìn thấy được, cũng chính là “ thế giới hình hình sắc sắc muôn màu muôn vẻ.
có thực chất, có thể nhìn thấy được, nơi trời thì là mặt trời, mặt trăng, các
vì sao, nơi đất thì là núi, sông, động, thực vật, khoáng sản … Tượng thiên là sự
hiển hiện thực tế của thế giới nhân loại. Phàm là những thứ có hình thể, bất luận
là hữu tình hay vô tình, đều thuộc về Tượng Thiên.
Dục
giới : cõi mà các chúng sanh hữu tình có ham muốn về thể xác, giới tính và những
ham muốn khác.
“
Khí Thế Gian ” của cõi Dục giới của vũ trụ mà đạo học chỉ ra tức là cõi trời hư
không phạm vi bên ngoài quả địa cầu, tổng cộng có 6 tầng, tức là :
cõi
trời Tứ Đại Thiên Vương,
cõi
trời Đao Lợi,
cõi
trời Dạ Ma,
cõi
trời Đâu Suất,
cõi
trời Hoá Lạc,
cõi
trời Tha Hoá Tự Tại,
gọi
là 6 cõi trời Dục Giới.
Chúng
sinh ở cõi Dục giới tuy hưởng dục lạc khác nhau (ở cõi trên thì sung sướng hơn
cõi dưới), nhưng nói chung đều chịu những nỗi khổ: hành khổ (không thoát được
luân hồi, đã sinh ra thì phải có lúc chết đi), hoại khổ (thể xác và những dục lạc
được hưởng rồi sẽ mất đi chứ không duy trì được mãi), bất tác ý khổ (không đạt
được ham muốn nên buồn khổ). Những chúng sinh ở 3 cõi thấp (địa ngục, ngạ quỷ,
súc sinh) thì gần như không có sung sướng mà chỉ có khổ đau.
Sắc
Giới
Những
sinh vật hữu tình trong cõi Sắc Giới là có hình thể vi diệu thanh tịnh, đã chẳng
còn lòng phàm của những dục vọng tham muốn, thường ở trong thiền định, Sắc Giới
gồm 4 cõi :
Trời
sơ thiền,
Trời
nhị thiền,
Trời
tam thiền,
Trời
tứ thiền,
Mỗi
cõi lại được chia thành nhiều cõi trời khác nhau. Những người tu thiền đã đạt đến
Tứ thiền định, khi thọ mạng hết thì tùy mức chứng đắc mà có thể sinh vào 1
trong 4 xứ này (ví dụ: người chứng đắc được Nhị thiền thì sẽ tái sinh vào cõi
Nhị thiền trong Sắc giới).
Các
chúng sinh ở đây đều thuộc nam tính nhưng đã chấm dứt mọi ham muốn giới tính,
không cần ăn uống, nhưng còn có thân xác và khoái lạc tinh thần. Đây là thế giới
của những người đã đạt tới cõi Thiền.
Vô sắc
giới : thế giới này được tạo dựng thuần tuý bằng tâm thức và gồm bốn xứ. Các
chúng sinh ở đây không còn thân xác vật chất mà chỉ tồn tại dưới dạng ý thức, họ
đã chấm dứt mọi ham muốn và khoái lạc, tinh thần.
Vô sắc
giới gồm:
Xứ
Không vô biên;
Xứ
Thức vô biên;
Xứ
Vô sở hữu;
Xứ
Phi tưởng phi phi tưởng.
Hành
giả tu học thiền đến cảnh giới cao, trên mức tứ thiền định (từ Không vô biên xứ
trở lên) có thể sinh vào bốn xứ này.
Những
chúng sanh hữu tình trong cõi Vô Sắc Giới đã vô tình vô dục, thanh tịnh chuyên
nhất. Chúng sinh ở cõi Vô Sắc giới không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được
ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác.
Họ cũng không phải chịu hoại khổ (do không còn thể xác nên không lo bản thân bị
hư hoại). Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), tức là đến một
lúc nào đó tuổi thọ của họ sẽ hết và họ sẽ phải chết đi, luân hồi sang kiếp
khác.
Tượng
Thiên là cõi phàm, Khí Thiên là cõi hồn, Vô Sắc Giới là linh giới thiền định của
tâm thức căn bản. Khí Thiên và Tượng Thiên đều là có sự biến hoá thay đổi, vả lại
cuối cùng rồi cũng sẽ đi hướng về sự huỷ diệt. Lí Thiên là trạng thái tĩnh, thường
mà bất biến; Khí Thiên là trạng thái động, biến mà hữu thường.
Chân
Thật Lí Thiên là linh giới. Chân Thật Lí Thiên tức là Nhất Chân Pháp Giới, đầy
khắp hư không, siêu vượt ra bên ngoài các cõi Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới,
siêu vượt ra bên ngoài vũ trụ, là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Tóm
lại, Lí Thiên là thế giới tràn đầy chân lí, là cảnh địa Vô Cực cao cấp nhất, là
nơi ở của Thánh Linh Thượng Đế ( Vô Sanh Lão Mẫu ) cao cấp nhất, có năng lượng
to lớn khổng lồ, là chủ tể và nguồn cội của Khí Thiên, Tượng Thiên và tánh linh
của tất cả mọi chúng sanh. Khí Thiên là ở chính giữa của vũ trụ tam trùng thiên
này, là linh giới của các vị thần tiên cư trú, ngoài những vị thần tiên thông
thường ra, các trung thần hiếu tử, nghĩa sĩ tiết phụ … sau khi qua đời thì linh
quang của họ cũng có thể thăng đến cõi Khí Thiên để sinh sống. Tượng Thiên
chính là thế giới vật chất của nhân loại, là biển khổ hồng trần nhân gian, con
người nơi đây chịu đủ thứ những sự dày vò của sanh, lão, bệnh, tử.
Nói
tóm lại, Lí là Phật Thể Tánh của Vô Cực Lão Mẫu; Khí là Thái Cực âm dương, Tượng
là hình tướng. Lúc sanh thì trước hết từ Lí sanh Khí, lại từ Khí sanh Tượng;
lúc hoại thì Tượng hoại nhanh chóng, kế tới là Khí, còn Lí thì chẳng có hoại.
Cũng giống như con người đến lúc lâm chung, mắt tai lờ mờ nghe nhìn không rõ,
tay chân chẳng còn linh hoạt, tê liệt chẳng có tri giác, chẳng cử động được nữa,
sau đó mới đứt hơi thở, chân tánh một linh lại chuyển luân hồi đầu thai vào một
thân xác khác ! vậy nên muốn thoát luân hồi thì không thể không tu đạo, quét Tượng
nhập Khí, siêu Khí nhập Lí.
Làm
thế nào mới có thể quét Tượng nhập Khí, siêu Khí nhập Lí ?
· Muốn vậy thì nhất định phải tu công lập
quả : 3000 công 800 quả; cái công của 3000 công là công Tam Thanh đấy : Tinh nhất
thanh công; Khí nhất thanh công, Thần nhất thanh công.
Tinh
nhất thanh công : Tinh ở đây là
thất tình lục dục, đều phải thanh tịnh.
Khí
nhất thanh công : Khí ở đây là
tình cảm, cảm xúc của con người đều phải thanh tịnh, ngũ uẩn đã không Quán Tự Tại.
Thần
nhất thanh công : Thần ở đây là
chánh giác, là tuệ đấy.
· Cần phải tìm Minh Sư, cầu đại đạo, sau
đó tuân hành Tam Tỉnh Tứ Vật, bên trong chẳng bị tình thức quấy nhiễu, bên
ngoài chẳng bị hình sắc cám dỗ, lúc nào cũng thâu tâm ( thủ huyền ), thường
thanh thường tịnh, tự có thể gìn giữ bảo vệ tinh khí thần, và tồn tâm quang
minh lỗi lạc ( tâm Bồ Đề, Đạo Tâm ), siêng hành ngoại công, tự tánh tự có thể
viên mãn tròn đầy sáng tỏ.
· Lập nguyện trì giới : Không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu
Đạo
|
Ngũ hành
|
Mộc
|
Kim
|
Hoả
|
Thuỷ
|
Thổ
|
Nho
|
Ngũ Thường
|
Nhân
|
Nghĩa
|
Lễ
|
Trí
|
Tín
|
Phật
|
Ngũ Giới
|
Sát
|
Đạo
|
Dâm
|
Tửu
|
Vọng
|
· Thực hành tu trì tam bảo tâm pháp
Lí :
Tánh : Huyền Quan
Khí
: Tâm : ngũ tự chơn ngôn
Tượng
: Thân : hợp đồng
Viện
Trưởng Đại Nhân từ bi rằng :
Phật
ngự Chí Tịnh Vô Cực Cung
Vĩnh
phối Thượng Đế chẳng tử sanh,
Khí
Tượng nhị thiên vốn có hoại
Lúc
vận số tận vẫn quy không.
Phật,
Thể, Tánh của Vô Cực Lão Mẫu :
Phật
: bổn lai diện mục.
Thể
: bổn thể
Tánh
: linh tánh.
Cả 3
đều là linh quang của Vô Cực Lão Mẫu
Đại
Vũ Trụ : Lí Thiên là Phật, Thể, Tánh của Vô Cực Lão Mẫu, là cung Vô Cực của
Minh Minh Thượng Đế, cũng tức là bổn thể của Đạo; Khí Thiên là thái cực âm
dương, là Khí giới của sự đối đãi nhau; Tượng Thiên là hình tướng, là thế giới
vật chất.
Thái
cực : Trước khi trời đất còn chưa phân, nguyên khí hỗn tạp thành một, tức là
thái sơ, thái nhất.
Tiểu
Vũ Trụ : Lí, Khí, Tượng là nguồn gốc của Đạo tâm, Nhân tâm, huyết tâm, cũng là
nguồn gốc của sự phân ra Kẻ ngu, Hiền Nhân và Thánh Nhân. Kẻ ngu thì chấp tướng,
Hiền nhân thì thông khí, Thánh nhân thì rõ lí.
Sự
thay đổi biến hoá của Khí Thiên cũng có thể lấy nhỏ suy lớn, ví dụ như một ngày
có ban ngày ban đêm, chính là 12 canh giờ, ban ngày thuộc dương, ban đêm thuộc
âm; một ngày một mở một đóng, ngày ngày như vậy. Một năm có 4 mùa, 12 tháng,
xuân hạ là dương, thu đông là âm, một năm một mở một đóng, năm nào cũng vậy.
Suy ra một Nguyên cũng là 12 Hội.
Thiên
địa một nguyên mười hai hội, 6 hội khai mở vạn vật, 6 hội thu bế vạn vật. Hội
Tí dương thăng, hội Ngọ âm giáng. Hội Ngọ cũng giống như chính ngọ ( đúng giữa
giờ ngọ, tức 12 giờ trưa ), hội Tí giống như lúc nửa đêm.
Hội
Tí là sự khởi đầu của sanh hoá vạn vật, hội Ngọ là sự bắt đầu của thâu sát vạn
vật, vạn vật trở về lại hư vô. Từ hội Tí cho đến hội Tị, từ chỗ chẳng có đi vào
chỗ có, từ Lí nhập Khí, từ Khí nhập Tượng, cũng tức là nhất bổn tán vạn thù. Từ
hội Ngọ đến hội Hợi, từ chỗ có trở về lại chẳng có, từ Tượng nhập Khí, từ Khí
trở về Lí, tức là vạn thù quy nhất bổn. Vậy nên hội Ngọ là then chốt cực đại
trong một Nguyên 12 Hội; khí số chảy khắp một vòng đến đây thì có sự thay đổi cực
lớn, sự sáng tạo của nền văn minh địa cầu thảy đều ở trong hội Ngọ. Khí số
chính là vận mệnh, cũng là kiếp số. Bất cứ người, việc, vật gì đều tránh không
khỏi khí số. Số đã đến rồi thì sẽ khởi sự thay đổi biến hoá, hoặc sống hoặc chết,
hoặc tồn hoặc diệt vong, hoặc thăng hoặc giáng, đều là điều tránh không khỏi.
Thiên địa nguyên hội hễ đến hội Ngọ thì là ải then chốt to lớn của vạn vật
thăng giáng.
Từ hội
Tí khai thiên, hội Sửu khai khẩn đại địa, hội Dần sanh người, nguyên linh từ Vô
Cực Lí Thiên giáng thế, cũng cần phải ở trong hội Ngọ bắt đầu phản bổn hoàn
nguyên ( quay trở về lại gốc cội ban đầu ). Tánh của thiên địa nhân vật thì hội
Tí nhập Lí, hội Sửu nhập Khí, hội Dần nhập Tượng, trải qua hội Mão, Thìn, Tị 6
hội, vạn vật thảy đều như thế. Hội Ngọ truyền đạo, do đó từ Tượng ngộ Khí, từ
Khí trở về lại Lí, đấy là tuần tự tận nhân hợp thiên, trình độ từ Hiền tới
Thánh.
Vậy
nên dựa theo Lí mà suy, hôm nay có thể suy ngày mai; năm nay có thể suy năm tới,
lớn nhỏ một Lí, dựa vào đấy mà cứ tiếp tục suy. Vậy nên biết từ một nguyên hội
này có thể suy lí một nguyên hội trước và một nguyên hội sau, tự nhiên hoàn
toàn khớp với nhau chẳng sai, vừa nhìn trong tâm đã rõ ngay.
Cái
Tánh khi chưa chào đời là cái Tánh thanh tịnh, cái tánh bổn nhiên.
Cái
Tánh đã chào đời là cái tánh bị gò bó trói buộc bởi khí bẩm, bị che lấp bởi vật
dục, cái tánh háo động, cái tánh của khí chất.
Cái
Tánh vĩnh hằng của con người đều là từ Vô Cực Lí Thiên mà đến, từ Lí nhập Khí,
rồi thì bị khí bẩm gò bó trói buộc; từ Khí nhập Tượng thì bị vật dục che lấp mà
quên mất con đường đến, tự tánh đã bị mê muội ! Khai thiên thâu thiên, là việc
của Duy Hoàng Thượng Đế. Các bậc thánh nhân nhiều đời phụng mệnh của Thượng Đế
giáng xuống cõi nhân gian, mỗi mỗi tự lập tông chỉ, giáo hoá những chúng sanh
ngu muội vô tri. Như đức Khổng Tử lấy “ khắc kỉ phục lễ ” lập giáo; Lão Tử lấy
“ quy căn phục mệnh ” lập giáo; Phật Thích Ca lấy “ lìa tất cả các tướng, nhất
hợp lí tướng ” lập giáo.
Lão
Tử rằng : “đại đạo vô hình”, Khổng Tử rằng : “ Thiên thượng chi tải, vô thanh
vô xú ”; Phật rằng : “ phàm hễ có tướng đều là hư vọng ”, cứu cánh rốt ráo của
Tam giáo đều là dạy con người từ Tượng trở về Khí, từ Khí trở về Lí.
Chúng
ta kiếp này có thể đắc đạo, đấy là thiên cổ kì duyên, 129600 năm, chỉ một lần
này. Vậy nên phải nhanh chóng mà hành công liễu nguyện, nhanh chóng mà thể ngộ
đại đạo, chớ nếu không uổng qua đại kì duyên phổ truyền muôn đời khó gặp này
thì lại sẽ phải đợi qua 129600 năm, quả thật là đại sự có liên quan lợi hại mật
thiết với sự sanh tử thăng giáng !
Ân
Sư từ bi rằng :
Vạn
giáo cùng nguồn một Lí truyền,
Phân
biệt tông phái lìa thiên nhiên,
Thiên
đạo vô vi vốn tự tại,
Một
đường kim tuyến xuyên Tam Thiên,
Thần
Nhân hợp nhất lí thông suốt,
Thánh
Hiền các đời chân lí tuyên,
Siêng
ngộ bạch dương nghĩa thật tướng,
Hiểu
thấu Thiên Tâm trợ Thiên Bàn.
Trên
là sự nhận thức đơn giản đối với hệ thống vũ trụ. Hy vọng rằng người tu đạo đều
có thể hiểu vũ trụ là nhiều thứ nguyên (đa chiều), có kết cấu vật chất, cũng có
kết cấu phản vật chất, có mặt trời, mặt trăng, các vì sao mà mắt thường có thể
nhìn thấy, cũng có các thế giới Chư Thiên không thể nhìn thấy. Các nhà khoa học
phóng hoả tiễn để thăm dò sự bí ẩn huyền diệu của khoảng không vũ trụ, hy vọng
có một ngày có thể di dân đến hành tinh bên ngoài trái đất để sinh sống. Thế nhưng
nhục thể thân người rồi cũng có lúc tận, người tu đạo nếu như có thể hiểu thế
gian như lời Phật đã nói trong kinh Kim Cang : “ phàm hễ có tướng đều là hư vọng;
nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai ”, là muốn chúng ta không
chấp trước ở danh tướng của thế giới hữu hình, mà phải xem trọng sự tồn tại của
thế giới vô hình; sau này trở về lại Vô Cực Lí Thiên vĩnh hằng bất diệt thì mới
xem là cảnh giới cao nhất. Hy vọng rằng các chúng sanh hữu duyên đều biết pháp
môn không hai để trở về lại Lí Thiên, mau sớm cầu đạo, lại học đạo, tu đạo,
hành đạo, tích công luỹ đức, hành công viên mãn thì mới có thể trở về lại cõi “
Vô Cực Lí Thiên ”, đắc được cảnh giới Vô Dư Niết Bàn, vĩnh sanh bất diệt.
Tam Thiên
|
Lí Thiên
|
Khí Thiên
|
Tượng Thiên
|
Tam Cực
|
Vô Cực
|
Thái Cực
|
Hoàng Cực
|
Chủ Tể
|
Lão Mẫu
|
Ngọc Hoàng
|
Quân Chủ ( vua )
|
Thụ Mệnh
|
Thiên Mệnh
|
Ngọc Chỉ
|
Thánh Chỉ
|
Hình Tướng
|
Vô hình vô tích
|
Vô hình hữu tích
( nóng, lạnh, tiếng, mùi )
|
Hữu hình hữu tích
|
Công Năng
|
Chủ tể vạn hữu
Sanh dục thiên địa
Trưởng dưỡng vạn vật
Vận hành nhật nguyệt
|
kết thúc bắt đầu vạn vật
Âm dương tiêu trưởng
Lưu hành thăng giáng
Âm thầm vận chuyển 4 mùa
|
Cấu thành mặt trời, mặt trăng, các vì sao.
Sinh thành núi sông, động thực vật, khoáng
sản.
|
Sinh Thành
|
Vô Sanh
|
Sanh trước
|
Sanh sau
|
Huỷ Diệt
|
Chẳng có sanh diệt
|
Diệt chậm
|
Diệt nhanh
|
Thân Người
|
Linh Tánh
|
Hô hấp ( hơi thở )
|
Nhục thân
|
Bẩm Tánh
|
Lí Tánh
|
Khí Tánh
|
Chất Tánh
|
Tam Tâm
|
Đạo Tâm
|
Nhân Tâm
|
Huyết Nhục Tâm
|
Thiện Ác
|
Thuần Thiện Chẳng Ác
|
Có thiện có ác
|
Ác nhiều thiện ít
|
Tam Thừa
|
Thượng Thừa
|
Trung Thừa
|
Hạ Thừa
|
Pháp Môn
|
Khẩu truyền Tâm ấn
|
Tham thiền đả toạ
|
Gõ tụng niệm xướng
|
Tam Dị
|
Bất Dị
|
Giản Dị
|
Biến Dị
|
Trình độ
|
Rõ Lí
|
Thông Khí
|
Chấp Tướng
|
Thành Tựu
|
Thánh Nhân
|
Hiền Nhân
|
Phàm Nhân
|
Hình icon Show icon