Nước
Lương thời Ngũ Quí,
Thường
thấy một hoà thượng,
Trán
nhăn, bụng lớn, mập,
Là
“ Bố Đại Hoà Thượng ”.
Mỗi
khi ngài đi đường,
Thường
cầm gậy Tích Trượng,
Túi
Vải chẳng rời mình,
Mười
tám trẻ đeo đuổi.
Lục
căn, trần, lục thức,
Đeo
đuổi mãi chẳng thôi,
Thường
bày trò diễu cợt,
Khiến
ngài mãi tức cười.
Gặp
Sa Môn đi qua,
Ngài
vỗ lưng một cái,
Thầy
Sa Môn giật mình,
Quay
đầu ngó lại hỏi.
“
Hoà Thượng làm gì vậy ? ”
“
Ta xin một đồng tiền ”,
“
Nếu tôi hỏi hoà thượng,
Nói
được tôi cho liền. ”
Ngài
liền để túi xuống,
Chấp
tay đứng một bên,
Lấy
túi mang trở lại,
Lật
đật quảy đi liền.
Thế
rồi có một hôm,
Có
ông Tăng thỉnh hỏi,
“
Trong đám đông người ấy,
Hoà
thượng muốn làm gì ? ”
“Đương
đợi một người đến ”,
“
Hoà Thượng đang đợi ai ? ”
Ngài
thò tay vào túi,
Lấy
quýt đưa ông liền.
Ông
vừa giơ tay lấy,
Ngài
liền thục tay lại,
Nhoẻn
miệng cười mà bảo,
“
Ngươi chẳng phải người ấy ! ”
Rồi
lại có một bửa,
Ông
Tăng chợt thấy ngài,
Đứng
bên đường gần chợ,
Hỏi
“ ở đây làm chi ? ”
“
Ta đi hoá duyên đó ”,
“
Sao nơi Ngã Tư vậy ? ”
“
Ngã Tư chính là chỗ,
Nơi ta muốn hoá duyên ! ”
Nơi ta muốn hoá duyên ! ”
Ông
Tăng muốn hỏi nữa,
Ngài
mang túi vải đi,
Rồi
cười ngất ha hả,
Một
hơi ngài bỏ đi.
Rồi
lại có một khi,
Bạch
Lộc Hoà Thượng hỏi,
“
Ẩn dưới cái túi vải,
Rốt cuộc là việc chi ? ”
Rốt cuộc là việc chi ? ”
Thiền
yếu Hoà Thượng hỏi,
Ngài
chẳng trả lời chi,
Một
lời cũng chẳng nói,
Vác
túi lên mà đi.
Ông
Bảo Phước Hoà Thượng,
Gặp
ngài thưa hỏi rằng :
“
Xưa Đức Tổ Tây Phương,
Qua đây ý gì vậy ? ”
Qua đây ý gì vậy ? ”
Ngài
nghe liền để túi,
xuống
rồi đứng tự nhiên,
Hoà
Thượng lại hỏi nữa,
“
Ngoài ra còn ý chi ? ”
Ngài
nghe hỏi như thế,
Lại lấy túi vải mang,
Một lời cũng chẳng nói,
Lẳng lặng liền bỏ đi.
Lại lấy túi vải mang,
Một lời cũng chẳng nói,
Lẳng lặng liền bỏ đi.
Ông
Trần Cư Sĩ hỏi,
“
Ngài có pháp hiệu không ? ”
Ngài
liền đọc kệ nhanh,
Bốn
câu thay lời đáp.
“
Ta có cái túi vải,
Rỗng
rang Không quái ngại,
Mở
ra khắp mười phương,
Thâu
vào Quán Tự Tại.
Trần
Cư Sĩ lại hỏi,
“
Hoà Thượng đi đó đây,
Liệu
có mang hành lý ? ”
Ngài
đáp kệ tức thì :
“
Bình Bát cơm ngàn nhà,
Thân
du muôn dặm xa;
Mắt
xanh xem người thế,
Mây
trắng hỏi đường qua.
Trần
Cư Sĩ lại thưa,
“Đệ
tử sao ngu quá,
đệ
tử biết làm sao,
cho
đặng thấy Tánh Phật ? ”
“
Chỉ cái Tâm Tâm Tâm là Phật,
Thập phương thế giới vật linh nhất,
Tung hoành diệu dụng muôn cảnh sanh,
Hết thảy chẳng bằng tâm chơn thật. ”
Thập phương thế giới vật linh nhất,
Tung hoành diệu dụng muôn cảnh sanh,
Hết thảy chẳng bằng tâm chơn thật. ”
Trần
Cư Sĩ lại thưa,
“
Hoà Thượng đi lần này,
Ngài
nên ở nơi chùa,
Nhà
thế gian chớ ở ! ”
Ngài
bèn đáp bài kệ,
“
Ta có nhà Tam Bảo,
Trong vốn không sắc tướng,
Trong vốn không sắc tướng,
Chẳng
cao cũng chẳng thấp,
Không
ngăn và không chướng,
Người
học khó làm bằng,
Người
cầu khó thấy dạng,
Người
trí biết rõ ràng,
Ngàn
đời không tạo đặng;
Bốn
môn bốn quả sanh,
Mười
phương đều cúng dường. ”
Trước
khi rời Cư Sĩ,
Ngài
viết một bài kệ,
Dán
nơi Cửa, tựa rằng :
“
Ta Có một thân Phật ”
“
Ta có một thân Phật,
Người
đời thảy chẳng biết;
Chẳng
vẽ cũng chẳng tô,
Không
chạm cũng không khắc;
Chẳng
có chút đất bùn,
Chẳng
có chút màu sắc;
Thợ
vẽ, vẽ không xong,
Kẻ
trộm, trộm chẳng mất;
Thể
tướng vốn tự nhiên,
Thanh
tịnh trong vặc vặc;
Tuy
là có một thân,
Phân
đến ngàn trăm ức.
Trước
khi ngài nhập diệt,
Ngài
ngồi dáng thẳng ngay,
Tụ
họp chúng sanh tại,
Chùa
Nhạc Lâm, kệ vầy :
“
Di-lặc Chơn Di-lặc,
Hoá
thân trăm ngàn ức,
Luôn
chỉ bảo người đời,
Người
đời đều chẳng biết.”
Di
Lặc Chơn Di Lặc,
Người
đời mấy ai biết ?
Túi
vải đeo bên mình,
Ngài
cười người chẳng biết !
Muốn
tìm gậy Tích Trượng,
Mau
bái Minh Sư tầm,
Một
chỉ ngộ huyền thâm,
Chơn
Di Lặc liền hiện.
Mười
vạn tám ngàn dặm,
Tây
Phương từ một tâm,
Mê
thì xa vời vợi,
Ngộ
rồi hiện nơi Tâm.
Một
chỉ ngộ Bổn Tâm ( 本心)
,
Liền
thấy Phật tự tánh ,
Chẳng
nơi sắc, thanh cầu,
Tự
Tánh Di Đà hiện.
Ý
Tổ thâm diệu huyền,
Mấy
ai khả tự ngộ ?
Muốn
ngộ được thiền yếu,
Duy
đắc Minh Sư truyền.
Người
dẫu đã khai ngộ,
Vẫn
phải Minh Sư tầm,
Tìm
bái Chơn Thiên Mệnh,
Một
chỉ tâm ấn tâm.
Hình icon Show icon