Nhận Chuẩn Kim Tuyến và Hộ Trì Thiên Mệnh
Thời
kỳ hồng dương, chúng sanh thế giới ta bà duyên chín muồi, có duyên với đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến đây giáo hoá chúng sanh. Một người
thì đóng không nổi một vở kịch, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đóng vai chính, lại
còn phải có rất nhiều các vai diễn phụ. Đi đâu tìm các vai diễn phụ đây ? Chư
Phật Bồ Tát đến đóng vai diễn phụ, giữa các ngài với nhau nơi bổn địa này là
tuyệt đối bình đẳng, chẳng có phân cao thấp, thế nhưng lên biểu diễn ở trước
sân khấu thì có sự phân cao thấp, có người đóng vai chính, có người đóng vai phụ.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm thầy, những vị còn lại làm học trò, có sự phân thầy
trò, chớ thật ra thì trong số đó có rất nhiều vị đã thành Phật trước cả đức
Thích Ca Mâu Ni. Phật Phật đồng đạo, giữa Phật với Phật ủng hộ lẫn nhau để đến
thành tựu mọi chúng sanh, tuyệt đối chẳng có sự tranh giành danh phận của bản
thân, thảy đều vì chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Đấy là nơi mà
chúng ta cần phải học tập.
Thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc bấy giờ không chỉ các đệ tử bên trong tăng đoàn là do các đại sĩ pháp thân, chư Phật đến hoá thân, đến biến hiện, mà còn các đệ tử hộ pháp tại gia, các quốc vương đại thần cũng đều là các đại sĩ pháp thân đến biến hiện, như đức vua Ba Tư Nặc, thái tử Kì Đà, ông Trưởng Giả Cấp Cô Độc, đều là các đại sĩ pháp thân đến biến hiện cả, cùng đến trước và sau sân khấu để diễn tốt vở kịch này. Nếu như chẳng phải là Phật Bồ Tát đến, thì ai mà chịu đem hoàng kim trong nhà ra để lát đất ? Bồ Tát đến biểu diễn, biểu diễn cho đại chúng xem. Trưởng giả Cấp Cô Độc dùng vàng lát đất thỉnh mời đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng pháp thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhất định là người phi thường, chớ nếu không thì ông ấy sao lại chịu làm như vậy ? Thế nên đối với những lời mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng, nghe rồi liền tin, vậy thì được thụ dụng. Đấy là biểu diễn đấy, điều này nhất định phải biết, phàm phu làm không nổi đâu. Những vị ấy đến biểu diễn, Phật vì chúng ta thuyết giảng pháp không thể nghĩ bàn, những người này làm chứng cho chúng ta. Họ không có phản đối, nghe rồi thì ai ai cũng ủng hộ, ai ai cũng hoan hỷ, ai ai cũng tán dương ca ngợi, đấy chính là đến để làm chứng minh cho chúng ta, giúp đức Phật hoằng dương cái pháp môn này, vậy nên gọi là “Đại A La Hán”, chẳng phải là người bình thường. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Thiên Mệnh Minh Sư thời kì hồng dương. Các vị tổ sư Đại Ca Diếp, A Nan, ... Bồ Đề Đạt Ma, cho đến các vị tổ sư trung hoa kế thừa tiếp nối đạo mạch kim tuyến.
Thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc bấy giờ không chỉ các đệ tử bên trong tăng đoàn là do các đại sĩ pháp thân, chư Phật đến hoá thân, đến biến hiện, mà còn các đệ tử hộ pháp tại gia, các quốc vương đại thần cũng đều là các đại sĩ pháp thân đến biến hiện, như đức vua Ba Tư Nặc, thái tử Kì Đà, ông Trưởng Giả Cấp Cô Độc, đều là các đại sĩ pháp thân đến biến hiện cả, cùng đến trước và sau sân khấu để diễn tốt vở kịch này. Nếu như chẳng phải là Phật Bồ Tát đến, thì ai mà chịu đem hoàng kim trong nhà ra để lát đất ? Bồ Tát đến biểu diễn, biểu diễn cho đại chúng xem. Trưởng giả Cấp Cô Độc dùng vàng lát đất thỉnh mời đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng pháp thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhất định là người phi thường, chớ nếu không thì ông ấy sao lại chịu làm như vậy ? Thế nên đối với những lời mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng, nghe rồi liền tin, vậy thì được thụ dụng. Đấy là biểu diễn đấy, điều này nhất định phải biết, phàm phu làm không nổi đâu. Những vị ấy đến biểu diễn, Phật vì chúng ta thuyết giảng pháp không thể nghĩ bàn, những người này làm chứng cho chúng ta. Họ không có phản đối, nghe rồi thì ai ai cũng ủng hộ, ai ai cũng hoan hỷ, ai ai cũng tán dương ca ngợi, đấy chính là đến để làm chứng minh cho chúng ta, giúp đức Phật hoằng dương cái pháp môn này, vậy nên gọi là “Đại A La Hán”, chẳng phải là người bình thường. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Thiên Mệnh Minh Sư thời kì hồng dương. Các vị tổ sư Đại Ca Diếp, A Nan, ... Bồ Đề Đạt Ma, cho đến các vị tổ sư trung hoa kế thừa tiếp nối đạo mạch kim tuyến.
Nay
thời đã đến mạt pháp, lòng người chẳng còn tốt như xưa, đạo đời suy yếu; Hoàng
Thiên đại khai hồng ân, lại phái Thiên Mệnh Minh Sư Tế Công Hoạt Phật, Nguyệt
Tuệ Bồ Tát đảo trang giáng phàm cứu thế, chưởng quản đạo bàn, phò trợ cho đức
Di Lặc Tôn Phật đang nắm quản thiên bàn,
cùng phổ độ chúng sanh Tam Tào ( thiên tào, nhân tào, địa tào ), khiến cho người
người quay về lại với bổn lai diện mục, khôi phục lại linh tánh bất muội vốn có
ban đầu ( gọi là đạt bổn hoàn nguyên ) , liễu thoát sanh tử, thoát lìa biển khổ
luân hồi. Các Đại sĩ pháp thân cùng Chư Phật, vạn tiên bồ tát hộ pháp, thảy đều
hạ phàm giúp đỡ trợ đạo. Một đời Thiên Mệnh Minh Sư phụng thiên thừa vận, ứng
thời ứng vận vì chúng sanh thắp sáng ngọn “ tâm đăng ”, dẫn đạo chúng sanh nhận
biết bổn tâm, thấy tự bổn tánh. Trong cuộc sống sinh hoạt nhập thế, tu trì pháp
môn Nhất Quán, người người thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia mà rốt ráo xuất
thế, thành tựu đức tánh của Thánh Hiền Tiên Phật.
Vào thời kì mạt pháp, tuy rằng có ngàn
môn vạn giáo dùng các loại phương pháp khác nhau để giáo hoá chúng sanh, cứu
vãn độ hoá lòng người, mong chúng sanh có thể bỏ ác tồn thiện, hành thiện hướng
đạo. Thế nhưng những sự giáo hoá phổ biến thông thường đều nặng ở chỗ thực hiện
“ chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành ” ( nghĩa là không làm tất cả mọi điều
ác, mà làm tất cả mọi điều thiện ), nhưng lại chẳng cách nào minh tâm kiến
tánh, liễu thoát sanh tử. Chính là vào cái thời khắc cuối cùng nhất này, Hoàng
Thiên khai ân giáng xuống một đường kim tuyến, phái Minh Sư giáng thế dẫn đạo về
mặt tâm linh cho những chúng sanh bơ vơ không chỗ nương tựa. Chỉ cần có thể nắm
chặt lấy đường kim tuyến, nhận lí quy chơn thì tất được cứu trợ, siêu sanh liễu
tử, chính là cái gọi là “ nắm bắt được cái gốc rễ thì thành Phật tổ, chẳng nắm
bắt được gốc rễ thì thành mù tu quáng luyện ”. Nếu chẳng thể nhận chuẩn đường
kim tuyến, cứ mãi mù tu quáng luyện, thì e rằng cả đời uổng tu một phen. Vậy
nên phải nhận chuẩn đường kim tuyến, hộ trì cho thiên mệnh vĩnh viễn hưng vượng,
khiến cho tuệ mệnh trường tồn bất hủ.
1.Nghĩa thật của một đường kim tuyến
Kim tuyến đại biểu cho sự “ thường mà
bất biến ”. Tổ Sư đời thứ 18 – Sư Tôn, Sư Mẫu phụng thiên thừa vận, phổ độ Tam
Tào.
Kim tuyến từ trời mà giáng, quán xuyên
Tam Tào ( Thiên, Địa, Nhân ) , truyền khắp tam giới thập phương, khiến cho phật
đường trở thành chiếc pháp thuyền cứu đời. Bởi vì có sự gia trì của thiên mệnh,
sự truyền xuống của kim tuyến càng là “ nguồn nước chảy dài ”, chẳng chút ngừng
nghỉ. Chư Thiên Tiên Phật, Vạn Tiên Bồ Tát giúp đỡ trợ đạo, vậy nên chỉ trong
vài chục năm ngắn ngủi mà đã có thể đạo hoằng khắp vạn quốc cửu châu. Các tu sĩ
Bạch Dương phổ biến khắp các nước trên thế giới, người người chơn tu chơn hành,
chánh kỉ thành nhân, độ mình độ người, vĩnh siêu sanh tử, chẳng ở trong sáu nẻo
luân hồi.
Kim tuyến từ đời tổ thứ 18 thì truyền
giáng Tam Tào. Thông qua các tu sĩ Bạch Dương lập chí phát tâm tế thế cứu nhân,
trong sự chơn tu chơn bàn liên miên chẳng dứt thì đường kim tuyến sẽ không
ngưng ở nơi cá nhân, cũng sẽ không ngưng ở Điểm Truyền Sư. Sự phát triển của đạo
vụ tuy rằng có sự dẫn độ của Dẫn Bảo Sư, cũng có sự thay thầy truyền đạo của Điểm
Truyền Sư, nhưng nếu như Dẫn Bảo Sư, thậm chí là Điểm Truyền Sư ở trong quá
trình tu bàn, nếu như có tồn những thành kiến thiên lệch, những tâm tư ích kỉ,
độc sáng tạo ý mới, lập môn hộ riêng, thậm chí là từ bỏ tổ sư đời thứ 18 để bái
sư khác làm thầy, thì tất nhiên sẽ mất đi đường kim tuyến, tất nhiên sẽ chấm dứt
sự kéo dài tiếp tục của đường kim tuyến, cũng có nghĩa là đã bị tịch thu tước bỏ
tuệ mệnh. Khi đã đánh mất đi đường kim tuyến, cho dẫu tự tưởng rằng tiếp tục vì
đạo, nhưng cũng chỉ là một khâu giáo hoá khuyến thiện mà thôi, chớ chẳng cách
nào điểm siêu sanh.
Kim tuyến có oai đức của thiên mệnh, hằng
cổ chẳng đổi dời. Nếu muốn nắm bắt lấy kim tuyến, thì cần phải có sự nội hàm của
chánh tri, chánh kiến, chánh pháp, chánh truyền, cũng có nghĩa là nói rằng nếu
như chẳng có chánh tri chánh kiến, rơi vào tả đạo bàng môn, chẳng có lòng công
chánh và lòng từ bi yêu thương, thì sẽ mất đi bản chất của chánh pháp chánh
truyền, cũng sẽ đánh mất đi sự gia trì của thiên mệnh, tất nhiên chẳng cách nào
có được kim tuyến, đánh mất đi sự truyền thừa của tuệ mệnh, cũng sẽ vĩnh viễn mất
đi chỗ dựa vững chắc của thiên ân sư đức.
Đường kim tuyến của đạo trường Phát Nhất
có sự gia trì của thiên mệnh, là các bậc Lão Tiền Nhân, Tiền Nhân bỏ nhà xả
nghiệp, xả thân bàn đạo, từ bi hỷ xả, hy sinh phụng hiến, được lòng trời, được
kế thừa thiên mệnh của Sư Tôn Sư Mẫu. Đường kim tuyến của đạo trường từ quá khứ
kéo dài tiếp tục cho đến hiện tại, còn phải vĩnh viễn tiếp tục kéo dài cho đến
vị lai mãi mãi không kết thúc ngưng nghỉ.
Kim tuyến chẳng có sự gián đoạn, thế
nhưng sinh mệnh của con người thì có hạn. Làm thế nào có thể khiến cho đường kim
tuyến kéo dài chẳng gián đoạn đây ? Các tu sĩ bạch dương đều nên có chánh tri
chánh kiến, nỗ lực hành lục độ vạn hạnh của bồ tát, noi theo tinh thần từ bi hỷ
xả của Chư Phật Bồ Tát, lấy lòng trời làm lòng mình, lấy chí hướng của thầy làm
chí hướng của mình, cứ từng thế hệ tiếp tục thay thế nhau, khiến cho sự truyền
thừa của đạo trường được vĩnh viễn tiếp tục, tuệ mệnh trường tồn.
Dựa theo sự vận hành và khung tổ chức
của đạo trường, mỗi một nhóm công tác trên cương vị trong khung tổ chức đều có
thể phát tâm liễu nguyện, mang chánh tri chánh kiến, chơn tu thật bàn; còn ở sự
vận hành tổ chức và thúc đẩy đạo vụ thì có thể trên hợp lòng trời, dưới thuận ý
người, dựa theo chánh pháp chánh truyền, tinh thần trung thành không hai, thì tự
nhiên cấu thành một đường kim tuyến thông thiên vĩnh viễn truyền thừa tiếp nối
trên đạo trường.
2. Làm thế nào nhận chuẩn kim tuyến và
hộ trì thiên mệnh ?
Lấy Nhất Quán Chơn Truyền làm pháp môn
tu trì, đi sâu vào một môn. Trong cái thời kì mạt pháp mà vạn giáo cùng phát thì
nhất định càng phải thể ngộ sâu sắc sự tôn quý của đạo và sự đáng kính nể của
thiên mệnh. Trong sự tu hành cũng cần phải lấy diệu pháp thù thắng của Nhất
Quán Chơn Truyền phụng làm pháp môn vô thượng, ôm đạo phụng hành, thuỷ chung đầu
cuối như một, thì mới có thể đạt đến sự viên mãn rốt ráo, liễu thoát sanh tử.
Có sự tu trì nội ngoại công khăng
khăng giữ mãi chơn đạo, kiên giữ cương vị phụ trách trên đạo trường, tận tâm liễu
nguyện thì mới có thể thật sự thực hiện, duy trì một đường kim tuyến, hộ trì cho
sứ mệnh thần thánh của thiên mệnh.
Theo đuổi đại đạo trường, đầu cuối chẳng
biến đổi : Đại đạo trường là pháp thuyền lớn cứu độ chúng sanh, phổ độ Tam Tào.
Khung tổ chức và sự vận hành của đại đạo trường là chế độ tốt đẹp vĩnh viễn tiếp
tục truyền thừa của kim tuyến thiên mệnh, ở trong sự Thiên-Nhân hợp nhất và Thần-Nhân
cộng bàn, thúc đẩy đạo cứu vãn thiên hạ, đạo hoằng khắp vạn quốc cửu châu. Vậy
nên để bảo đảm tu đạo thuỷ chung đầu cuối như một, vĩnh viễn không thoái chuyển
thì duy chỉ có theo đuổi đại đạo trường, tham bàn sự vận hành đạo vụ của khu vực,
thì mới có thể bảo đảm chơn tu chơn bàn, mỗi người có thể khéo dùng sinh mệnh của
bản thân để đạt đến thành công viên mãn.
Chân thành không hai, từ bi hỷ xả, bên
trong tu bản thân, bên ngoài độ người, tôn sư trọng đạo, cẩn thận tuân thủ phật
quy lễ tiết, khiến cho trên dưới có thứ tự, đồng tâm đồng đức, cùng nắm tay
nhau, lấy thân mình để thị hiện đạo, nỗ lực thực hành tiêu chuẩn, hiển hiện sự
tôn quý của đạo, hộ trì thiên mệnh. Mọi người tu bàn đạo có lòng tin, đoàn kết
nhất khí, khiến cho chiếc pháp thuyền lớn bạch dương có thể tiến về trước một
cách bình an vững chắc.
Vào cái lúc vạn giáo cùng phát, ngàn
môn vạn giáo mỗi mỗi đều hiển thần thông, thì tuyệt đối không thể nhất thời mê
muội mà đi sai lầm vào tả đạo bàng môn; tự mình sai lầm, làm trễ lỡ tuệ mệnh của
bản thân thì còn là chuyện nhỏ; nếu làm trễ lỡ tuệ mệnh của ngàn vạn chúng sanh
thì tội chẳng gì lớn bằng, vậy nên nhất định phải nắm bắt lấy thật chặt một đường
kim tuyến của Sư Tôn, Sư Mẫu, đi theo bước chân của các bậc Tiền Nhân, thừa thượng
khải hạ, dùng chánh tri chánh kiến để dẫn lãnh các đạo thân đi trên đại đạo
chân lí, nhất định phải có thể quy căn nhận Mẫu, trở về lại cõi Vô Cực.
Chiếc pháp thuyền bạch dương phải làm
thế nào để có thể chở vô số chúng sanh lái hướng đến bờ bên kia một cách bình
an, trở về thánh vực Lí Thiên đây ? Muốn vậy thì nhất định cần phải tất cả các
tay thuỷ thủ đều đồng tâm đồng đức, cùng nắm tay nhau, đồng tâm hợp sức, mục
tiêu nhất trí, người người phát ra tâm chí mạnh mẽ kiên quyết, gánh vác lên trọng
trách đại nhiệm phổ độ chúng sanh, dũng cảm đi khai sáng thánh nghiệp, thì tất
nhiên sứ mệnh có thể đạt thành.
Dùng tứ nhiếp pháp – 4 loại phương tiện
bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để đi vào cộng đồng, phục vụ xã hội, rộng kết
thiện duyên, nỗ lực thành hành bồ tát đạo; dùng tinh thần lục độ vạn hạnh để độ
hoá chúng sanh, rộng bố thánh đức thay Sư Tôn, Sư Mẫu, khiến cho càng nhiều
chúng sanh được triêm thiên ân, được nhận chánh pháp, cùng trở về cõi cố hương
cực lạc.
Mọi người hợp tác với nhau một cách
hài hoà, hoà bình, cùng sáng tạo ra một vườn nhà Di Lặc, thiên đường chốn nhân
gian.
Không ngớt thúc đẩy “ ba nhiều bốn tốt
” :
Nhiều người cầu đạo, khiến cho càng
nhiều chúng sanh cầu được chân lí đại đạo, tánh mệnh được cứu.
Nhiều người dự pháp hội, khiến cho
càng nhiều đạo thân đi tham dự pháp hội, khải phát trí tuệ lương tri, phát ra
cái tâm bồ đề.
Nhiều người tham dự các lớp tiến tu,
khiến cho tâm tánh đạo thân càng trưởng thành, cứu độ chúng sanh trên phạm vi
càng rộng lớn, cùng lên pháp thuyền.
Lại tích cực nghiêm túc đạt thành bốn
tốt : học đạo học được tốt, tu đạo tu được tốt, giảng đạo giảng được tốt, bàn đạo
bàn được tốt, khiến cho người người tu đạo đều đạt tiêu chuẩn, đều trở thành tấm
gương sáng mẫu mực trong đạo, khiến cho thiên mệnh vĩnh viễn hưng vượng, tuệ mệnh
vĩnh truyền !
Nhận chuẩn đường kim tuyến, hộ trì
thiên mệnh, không chỉ là sự bắt rễ sâu chánh tri chánh kiến trong lòng, mà càng
phải có sự thực tiễn của việc chơn tri và nỗ lực thực hành, thì mới có thể thật
sự hiệu quả, mới có thể duy trì và hộ trì Nhất Quán Chơn Truyền, hoằng dương
lâu xa, thiên thu vạn thế, vĩnh viễn tiếp tục truyền thừa. Vậy nên thân là đệ tử
của đại đạo Nhất Quán thì đều nên nỗ lực học tu giảng bàn hành, ở trong đạo trường,
tam thí song tiến, chú trọng sự tu trì của nội đức, phát huy cái tâm từ bi, bên
ngoài độ người, lấy nội hàm của bậc chánh nhân quân tử để lập thân xử thế, noi
theo hành động của các bậc Thánh Hiền Tiên Phật, lập thân hành đạo. Như vậy thì
mới có thể phát triển đại cách cục của đại đạo trường, thực hiện việc nhận chuẩn
đường kim tuyến, hộ trì thiên mệnh, truyền thừa vĩnh viễn tiếp tục một cách rất
tự nhiên.
3. Toàn thể đạo thân đồng tâm đồng đức, tận tâm vì sự truyền thừa thiên mệnh
3. Toàn thể đạo thân đồng tâm đồng đức, tận tâm vì sự truyền thừa thiên mệnh
Trường Sanh Đại Đề từ bi huấn thị rằng
: “ Cái gọi là “ thiên mệnh đáng kính nể ” chính là thiên mệnh chẳng phải là
nói trên đầu môi lưỡi không thôi, mà còn là phải kính nể một cách thật lòng, thực
tế đi hộ trì, bảo vệ, tôn kính một cách thật lòng, thì mới có thể đời đười
tương truyền, đời đời truyền thừa. Cái công phu truyền thừa này, cái mệnh truyền
thừa này là duy trì bảo vệ ở trên thân của mỗi một người. Mỗi một người đều là
gánh vác sứ mệnh mà đến !”
“ Có năng lực, có tâm, thì cũng phải đề
bạt các hậu học ! hy vọng các con, những người có năng lực càng nên dốc sức làm
nhiều, hiệp trợ nhiều cho các Tiền Hiền. Thiên mệnh không những phải truyền thừa,
mà công tác hộ trì càng là không đơn giản, càng là quan trọng đấy ! Cả đạo trường
phải dựa vào lực lượng sức mạnh của mọi người để hộ trì, ủng hộ, củng cố ”
Sư Tôn từ bi huấn thị rằng : “ Thiên mệnh
không chỉ thiên thượng truyền, không chỉ nhân gian truyền, mà là một thể lưu
hành, không chỉ một người gánh vác, mà còn là ngàn ngàn vạn vạn người đều phải
cùng nhau gánh vác. Chẳng phải là nói cái sứ mệnh này là của ai đâu, mà mỗi người
đều có sứ mệnh đấy ! Chỉ là làm sao để lãnh đạo, làm thế nào để khiến cho càng
thêm viên mãn mà thôi. ”
“ Sự truyền thừa của thiên mệnh thì mỗi
người đều có trách nhiệm; con con cháu cháu, đời đời muôn năm đều phải khiến
cho tiếp tục truyền thừa xuống, chẳng thể gián đoạn. Chẳng có cái thiên mệnh
này thì trời tất loạn, địa tất loạn, người tất loạn, vậy nên chỉ chỉ có sự lưu
hành rộng lớn của cái thiên mệnh này, lưu hành một cách đúng đắn, thì mới khiến
cho mọi người đều bình an, toàn bộ mọi người mới có thể triêm được sự xán lạn.
”
“ Sự ổn định của nhân gian ở đâu vậy ?
Ở những người đức cao vọng trọng, những người có tâm bàn đạo, có tâm độ hoá
chúng sanh. Tâm của con càng mãnh liệt thì sứ mệnh càng mạnh; con qua loa cho
xong chuyện thì ơn trên cũng chẳng dám đem sứ mệnh giao phó cho đâu … Những người
tu hành thì nhiều đến muôn vạn, nhưng có mấy người thật sự đang gánh vác sứ mệnh
? Hay là các con chỉ là nối đuôi theo người ta ? Các con muốn làm thuỷ thủ, làm
thuyền trưởng, hay chỉ là muốn bị cuốn trôi theo sóng, phiêu dạt trôi nổi đó
đây ? Điều này thì tuỳ bản thân các con lựa chọn đấy. Tay thuỷ thủ của sinh mệnh
thì chớ có mà phiêu dạt trôi nổi chẳng có định hướng theo thế tục … nghỉ ngơi
là sự nghỉ nơi của nội tâm, chớ chẳng phải là sự nghỉ ngơi của bước chân; bước
cân phải tích cực, thế nhưng tâm cảnh phải đạm bạc, đương nhiên con làm việc cần
phải mọi người “ chúng chí thành thành ” ( vạn chúng nhất tâm, đoàn kết nhất
trí khắc phục mọi khốn khó ).
“ Lúc con làm việc làm một cách vô vi,
ơn trên tự nhiên sẽ cho con sức mạnh vô cùng; nếu làm mà có chỗ mong cầu thì vẫn
cứ sẽ là lực bất tòng tâm; vậy nên truyền đăng, truyền cái tuệ mệnh này, giống
như ngọn đèn biển ngàn năm chỉ dẫn chúng sanh cứ mãi tiếp tục mà đi. Quay về
nhà các con phải thật tốt mà độ hoá chúng sanh. Hy vọng các con đều ngay lúc ấy
chính là Phật, vĩnh viễn chính là Phật, chớ chẳng phải chỉ có sự hiển hiện phật
tánh một phút một giây thôi, mà là phải mỗi ngày đều hiển hiện phật tánh, ngày
ngày đều có thể chỉ dẫn chúng sanh, truyền cảm hứng cho chúng sanh. Gia đình
càng phải viên mãn, gia đình viên mãn mới là nền tảng lớn nhất của các con … ”
“ Các hiền đồ dùng một lòng chẳng hai
để hộ trì thiên mệnh, hộ trì pháp thuyền, hộ trì chúng sanh, hộ trì Tiên Phật,
thì mới có được công đức lớn. ”
Tóm lại, các tu sĩ Bạch Dương phải lấy
việc nhận chuẩn kim tuyến làm bước đầu, lấy việc duy trì bảo hộ kim tuyến kéo
dài chẳng dứt làm kết quả. Kim tuyến thật sự tất được sự gia trì của thiên mệnh,
khiến cho rộng bố khắp tam giới thập phương, ân huệ ban khắp Tam Tào. Kim tuyến
chơn thường bất biến quán xuyên quá khứ, hiện tại, vị lai. Việc hộ trì thiên mệnh
quý ở chỗ theo đuổi và thực hiện thì mới có thể gầy dựng đại đạo trường to lớn
lâu dài.
Ở trong sự cùng phát của vạn giáo, người
bình thường dễ bị mê muội mất, cũng dễ dàng sai loạn, vậy nên nhất định cần phải
dùng trí tuệ để nhận chuẩn kim tuyến, càng phải lấy nhân nghĩa tồn tâm, phát
huy tinh thần nhân ái, hoằng pháp lợi sanh, cứu độ muôn dân bá tánh, càng phải
lấy tinh thần quả cảm cương quyết, dũng cảm gánh vác, khiến cho thiên mệnh vĩnh
viễn hưng vượng, nguồn xa dòng dài.
Thiên mệnh kim tuyến, pháp thuyền bạch
dương là chiếc pháp thuyền quý báu trong biển khổ có thể khiến chúng sanh lìa
khổ được vui, là một con đường tắt từ thế giới sa bà thông đạt đến tây phương,
cũng là pháp môn phương tiện rốt ráo thành phật của thời mạt hậu nhất trước, phổ
độ thâu viên. Tất cả chúng ta cần phải khéo thêm hộ trì, khiến cho có thể chở
được 92 ức Nguyên Phật Tử có thể lái hướng đến bờ bên kia một cách an toàn, trở
về đến cõi Vô Cực Lí Thiên.
Thầy
Tế Công Hoạt Phật từ bi khai thị :
Sau
khi cầu Đạo bái Phật làm thầy, bái một đời Minh Sư làm thầy ( không phải là bái
người phàm làm thầy ) , lại đến các pháp môn khác tu hành thì sẽ như thế nào ?
Lúc
bấy giờ, rất nhiều các đồ nhi trong lúc lập nguyện, ơn trên ban cho các con
thiên chức, sứ mệnh gánh vác. Các con như thế sao còn phải đi các pháp môn khác
tu hành ? Tu đạo thì đạo lý phải rõ ràng, bàn đạo thì phải cẩn thận tuân giữ phật
quy. Nếu như các con đi đến các tôn giáo khác để tu hành ( bái người làm thầy
), thì những nguyện lập, những thiên chức đã ban cho các con lúc ấy, lại còn cả
đạo thống truyền đạo, biểu văn cầu đạo, họ tên trên đó, và cả họ tên đã ghi
danh nơi Tam Quan Đại Đế nữa đều bị xoá huỷ, trả về lại “ sổ sanh tử ” cho Diêm
La Vương chưởng quản. Đó là lý do vì sao mà sau khi cầu đạo xong, các con phải
cẩn thận, cẩn giữ phật quy, đạo mạch đạo thống phải rõ ràng, chớ không phải là
mơ màng hồ đồ chẳng biết gì. Thâu hồi thiên chức của các con rồi, sau đó các
con biết bản thân mình đã đi sai đường vì lại đi bái người làm thầy, mà con người
thì không thể thập toàn thập mĩ, càng bái càng mê tín, thì con phải quay trở về
thánh điện Bạch Dương để sám hối, phải cầu đạo trở lại, thì ở trên biểu văn vẫn
sẽ ghi là cầu đạo trở lại, khẩu nguyện vẫn còn tồn tại, phát lại tâm nguyện,
sám hối lập lại thiên chức ( Đàn Chủ hoặc Giảng Sư ). Điểm Truyền Sư thì không
còn là Điểm Truyền Sư nữa rồi, nói như vậy các con có hiểu không ?
Ơn
trên giáng đạo là để cho các con một kiếp tu, một kiếp thành, chẳng cần phải
luân hồi khổ tu, khổ luyện nữa. Ơn trên biết các chúng sanh thời mạt pháp trầm
luân mê muội rất sâu nặng rồi nên mới đại khai phổ độ, phải độ trở về chín mươi
sáu ức Nguyên Thai Phật Tử.
Hình icon Show icon